Lịch sử Cứu độ (3)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 4854 | Cập nhật lần cuối: 4/23/2015 10:21:38 AM | RSS

(tiếp theo)

Gia tộc biến thành Dân tộc (đọc Xuất hành 1-18)

Giuse đã chết rồi, các anh em ông hết thảy rồi tất cả thế hệ ấy. Con cáiIsraelsinh sôi nảy nở, họ nên đông đảo và hùng hậu lắm lắm, đến đổi xứ đầy những người của họ.

Bấy giờ có vua mới, không hề biết Giuse, lên ngôi ở Ai Cập. Ông nói với dân chúng của ông: “Này dân con cáiIsraelđông đảo và hùng hậu hơn ta. Nào! Ta phải khôn mưu với nó! Kẻo nó sinh sôi và khi xảy có giặc, nó lại hùa với địch và đánh lại ta rồi lên khỏi xứ này”. Và người ta đặt trênIsraelnhững khổ dịch để bức bách dân è vai vác nặng. Và dân đã phải xây cho Pharaô các thành thương khố Phithom và Ramsès. Nhưng người ta càng áp bức, thì dân càng đông đảo bành trướng, khiến người ta phải khiếp sợ con cái Israel. Người Ai Cập bắt con cáiIsraellao công một cách ác nghiệt, bắt chúng sống cay sống cực bằng lao dịch nặng nề: khuấy hồ làm gạch, và các công việc đồng áng, tức là hết thảy các công việc người ta bắt họ phục dịch một cách ác nghiệt” (Xh 1,6-14)

Qua những dòng trên đây, sách Xuất hành quyển thứ nhì của Thánh Kinh, đã dồn ép lịch sử một khoảng độ 400 năm bằng cách nhảy từ Giuse sang Môsê. Sự suy thoái của dânIsrael, dòng giống của Giacob-Israel chắc là đã trùng hợp với sự người Hyksos bị mất quyền hành ở Ai Cập. Những người ngoại xâm này đã bị dân bản xứ Ai Cập đánh bại vào thượng bán thế kỷ XVI trước Thiên Chúa giáng sinh (khoảng 1750), và chúng ta có thể hình dung được dễ dàng sự thất sủng nhanh chóng của dân Israel sau khi bà con của họ là những người Sêmít bị trục xuất. Tuy nhiên, họ vẫn tiếp tục phát triển và tạo thành một gia đình nói được là rất công đức và bà con họ hàng với nhau. Khi vận mệnh của họ dường như đã sa xuống tận đáy vực sâu, thì một vị giải thoát, một vị cứu tinh liền được gửi đến cho họ. Đây là Môsê, một khuôn mặt chắc chắn là nổi bật nhất trong Cựu Ước.

Buổi thơ ấu và thời kỳ niên thiếu của Môsê càng thêm đậm nét qua sự ông được thoát chết khi hãy còn bé bỏng, sự ông được giáo dục trong triều đình vua Pharaô, sự ông khám phá được sự thật về gia đình của ông, sự ông trốn khỏi Ai Cập sau khi đã giết chết một người Ai Cập đang hành hạ một người Israel và sự ông đến xứ Mađian. Xứ này tọa lạc ở phía Nam Edom và phía Đông vịnh Agaba. Đến đây, giai đoạn quan trọng nhất của ông bắt đầu.

Ở chương 3 sách Xuất hành, chúng ta đọc thấy câu chuyện Môsê với vụi gai có lửa bốc cháy mà vẫn không bị tiêu hủy. Ông cởi dép ra và nơi ông đang đứng đã được thánh hóa bởi sự hiện diện của Thiên Chúa. Môsê được Thiên Chúa chọn làm vị cứu tinh của dân Hy-bá-lai (Hippri), đang bị nô lệ. Ông được Thiên Chúa ban cho quyền đánh động vua Pharaô và được Thiên Chúa mặc khải Thánh Danh của Ngài: Đức Chúa. Ý nghĩa của Thánh Danh này hãy còn được các nhà học giả tranh luận, nhưng theo một ý kiến đáng tin cậy thì nó có nghĩa là: “Ta là Đấng ban sự sống cho muôn vật”. Bởi thế, Môsê đã trở lại Ai Cập và bắt đầu thương lượng với vua Pharaô để dân Israel được giải thoát. Những tai ương cũng như những sự rối loạn trong thiên nhiên đã thúc bách Pharaô sớm thực hiện cuộc phóng thích đó. Nhưng ông vẫn chống lại cho đến khi tai họa cuối cùng giáng xuống ông mới đầu hàng. Sự giết chết tất cả những con đầu lòng của người Ai Cập. Đêm trước khi xảy ra việc này, dân Israel đã được lệnh giết một con chiên cho mỗi gia tộc, lấy máu nó bôi lên cửa, ăn một cách hối hả, sẵn sàng để ra đi bất cứ lúc nào. Cái chết đã giáng xuống cho tất cả các con đầu lòng đất Ai Cập nhưng vẫn vượt qua một cách vô hại trước những cánh của người Israel có bôi máu. Đây là sự VƯỢT QUA đầu tiên, giây phút quyết định của cuộc giái phóng, giây phút không bao giờ được quên trải qua các thế kỷ kế tiếp. Pharaô buộc lòng phải phóng thích các người nô lệ và để cho họ ra đi.

Dân Israel trốn vào sa mạc, đi thẳng về phía Đông. Có một con đường thẳng và gần, dẫn vào đất Canaan, mục tiêu cuối cùng của các người trốn thoát. Nhưng Môsê không chịu dùng con đường ấy. Có lẽ ông thấy rõ ràng rằng con đường đó sẽ giúp cho ông và những người tùy tùng đi nhanh hơn, nhưng nó cũng sẽ giúp cho các xe trận của Pharaô càng đi nhanh hơn nữa, trong trường hợp ông này thay lòng đổi dạ. Và quả thật như thế, Pharaô đã đổi ý. Ai cũng biết rằng tất cả các nước đều rất ngần ngại khi phải để mất đi sự phồn vinh được xây đắp bằng công phu của những người nô lệ. Lực lượng của Pharaô đuổi theo dân Isarel, bắt kịp họ nhưng rồi bị tiêu diệt bởi sự nước Biển Đỏ khép lại rất nhanh chóng, biển này do một hiện tượng thiên nhiên lạ lùng gây nên bởi quyền phép Thiên Chúa, đã để cho dân Israel đi qua an toàn. Đây là hành động thứ nhì của Thiên Chúa mà những người nô lệ trốn thoát này cũng như tất cả con cháu của họ không bao giờ được quên (hành động thứ nhất là sự vượt qua). Bằng cách bày tỏ quyền năng một cách lạ lùng như thế, Thiên Chúa đã cứu họ thoát khỏi một đế quốc mạnh mẽ nhất thời ấy. Qua những phép lạ như thế, Thiên Chúa đã bày tỏ quyền năng của Ngài cũng như lòng từ bi và sự luôn luôn có mặt của Ngài.

Lịch sử Cứu độ (3)Sách “Xuất hành” vì quá bận tâm đến khía cạnh linh thiêng của các sự việc, đến những gì Thiên Chúa đã làm cho dân Israel, cho nên nó hoàn toàn bỏ qua những điểm mà độc giả thời nay rất quan tâm. Chẳng hạn ai là Pharaô trong thời xuất hành thoát khỏi nước Ai Cập? Sự giải phóng này đã xảy ra khi nào? Sự vượt qua biển đã xảy ra ở nơi nào? Thánh Kinh không trả lời những câu hỏi như thế, nhưng những học giả ngày nay được trang bị bằng những dụng cụ nghiên cứu lịch sử và khảo cổ học, tin rằng họ có thể trả lời được.

Cuộc Xuất hành thường được cho là đã xảy ra vào hạ bán thế kỷ XIII trước Thiên Chúa giáng sinh, dưới thời vua Pharaô Ramesès II. Ông này có 79 người con trai và 59 người con gái, điều này dường như ăn khớp hoàn toàn với nội dung văn bản thuật lại những cuộc mạo hiểm của dânIsrael. Việc Môsê được vị công chúa Ai Cập cứu thoát cho thấy: cung điện của nhà vua nằm ở phía Bắc gần đồng bằng dânIsraelở. Và nơi đó là cung điện của Ramesès II. Tên của thành phố đã được dânIsrael xây cất mang tên là Ramesès, có ngụ ý ông vua này là một người rất say mê việc xây cất. Những đặc điểm khác nữa cũng chứng tỏ đó là thế kỷ XIII. Môsê được nói đến như là một người đồng thời với vuaMoab, và các nhà khảo cổ học ngày nay đã tuyên bố rằng vương quốc Moab đã được khai sinh vào thế kỷ XIII. Vậy đặt Môsê vào cuộc xuất hành vào khoảng 1250 trước Thiên Chúa giáng sinh có lẽ là đúng nhất.

Sự vượt biển thường được cho là đã xảy ra ở phía trên phần chính của Biển Đỏ, nơi sình lầy giữa vùng nước Biển Đỏ và hồ Timsah về phía Bắc. Trong văn bản (Hípri) thì cái biển đã vượt qua được gọi là Yam Suph có nghĩa là Biển Sậy, điều ấy cho thấy: chỗ đó là một vũng sình lầy.

Chính do những biến cố trong cuộc xuất hành mà Môsê được gọi là vị cứu tinh của Israel. Đây là tước hiệu thứ nhất trong hai tước hiệu cao quý của ông. Khi nói đến việc Môsê dẫn đưa dânIsraelra khỏi Ai Cập, chúng ta phải hiểu rằng từ ngữIsraelcó nghĩa là một đám dân chúng hỗn tạp. Đa số là thuộc dòng giống Giacob-Israel, nhưng chắc là cũng có những dòng họ khác nữa, từng cá nhân hoặc từng nhóm đã lợi dụng cơ hội để trốn thoát khỏi ách nô lệ, chỉ khi ở trong sa mạc nhóm này mới chấp nhận một nếp sống chung, một mục đích chung, một phần luật chung và một sự lãnh đạo chung. Và như thế, đám dân chúng ấy sẽ trở thành dân tộc.

Dân tộc trở thành tôn giáo

(đọc Xuất hành các chương 19-20 về lễ kết ước và thập giới; chương 24 về sự thừa nhận lễ kết ước; chương 25,1-27, 2 về khám giao ước và nhà tạm; chương 40 về khám giao ước và nhà tạm để làm nơi Thiên Chúa hiện diện).

Mồng một tháng thứ ba kể từ khi con cáiIsraelra khỏi Ai Cập, chính trong ngày ấy họ tới sa mạc Sinai. Họ đã trẩy đi khỏi Raphiđim và đã đến sa mạc Sinai và đóng trại trong sa mạc.Israel đã đóng trại ở đó, đối diện với núi. Môsê đã lên với Thiên Chúa. (Xh 19,1-3)

Những dòng trên đây mở đầu biến cố thứ nhì có tầm quan trọng vĩnh viễn và sâu xa trong cuộc đời Môsê. Ông đã chứng tỏ ông là vị cứu tinh củaIsraelmà nếp sống cộng đồng và mục đích chung đã luyện cho họ trở thành một dân tộc; giờ đây, ông trở thành vị trung gian giữa dânIsraelvà Thiên Chúa.

Vậy bây giờ, nếu các ngươi quyết nghe tiếng Ta mà giữ giao ước của Ta, thì các ngươi sẽ là sở hữu của Ta giữa các dân hết thảy, vì toàn cõi đất đều là của Ta. Còn các ngươi, các ngươi sẽ làm một vương quốc tư tế cho Ta, một dân thánh. (Xh 19,5-6)

Đó là những lời Thiên Chúa phán với Môsê. Từ ngữ “kết ước”, như chúng ta đã thấy đối với Abraham có nghĩa là thỏa hiệp, giao kết. Thiên Chúa bày ra lễ kết ước và quy định những yếu tố thành phần của nó. Điều căn bản trong đó là Thiên Chúa đã đoái thương trở nên người cha của dân tộc này, và nó trở thành con của Ngài. “Israel là con của Ta, con đầu lòng của Ta”, đó là lời Thiên Chúa trong Xuất hành 4, 23. Để bảo chứng thỏa ước này, Môsê lấy máu những con bò đực tơ, rảy phân nửa lên bàn thờ đại diện cho Thiên Chúa, và rảy phân nửa kia lên dân chúng. Qua hành động tượng trưng này, Thiên Chúa và dân chúng trở thành một gia đình, những người cùng máu huyết. Những lời của Môsê rất quen thuộc đối với những người Công giáo bởi vì rất giống những lời truyền phép trong Thánh lễ:

“Này là máu giao ước đã kết với các ngươi, thể theo mọi lời ấy”. (Xh 24, 8)

Lịch sử Cứu độ (3)

Như một người cha, Thiên Chúa hứa bảo vệ dân Ngài như một đứa con, dân thề hứa vâng phục Cha chí thánh của mình. Ý muốn của Ngài đã bộc lộ rõ ràng trong thập giới, đó là giới luật căn bản đã ban cho dân Israel. Giới luật này hoặc toàn bộ các giới luật chỉ là sơ đẳng, là một thứ luân lý có thể vừa tầm một dân tộc thô sơ vừa mới thoát ách nô lệ lâu năm ở một nước ngoại giáo. Mỗi giới răn đều đặt nền tảng trên nhân đức rõ rệt nhất và tự nhiên nhất, đó là sự công bằng hay sự tôn kính những quyền lợi của tha nhân. Ba giới răn đầu liên quan đến những điều phải có đối với Thiên Chúa: sự độc tôn, sự kính trọng và kính dâng một ngày trong tuần. Bảy giới răn còn lại liên quan tới quyền lợi tha nhân: quyền lợi của cha mẹ là những người phải được con cái tôn kính vì đã sinh ra chúng, quyền lợi của mỗi người đối với tài sản, với vợ chồng và danh giá của mình. Tuy những giới răn này thật là chất phác và tự nhiên, nhưng chúng cũng biểu lộ rõ ràng rằng mới quan tâm của Thiên Chúa đối với luân lý của loài người. Những điều công bình đơn giản như thế đã từng làm nền tảng qua bao nhiêu thế kỷ cho quy ước luân lý cao thượng nhất trên thế giới, trước ngày Đức Kitô ra đời.

Những yếu tố khác của lễ kết ước này cũng đáng chú ý. Rõ rệt nhất là Khám Giao ước và Nhà Tạm. Khám giao ước là vật sở hữu giá trị nhất và dễ sắm của dân Israel. Rất đơn giản, nó là một cái khám bằng gỗ keo, hai xích rưỡi chiều dài, một xích rưỡi chiều rộng, một xích rưỡi chiều cao. Nó được dát bằng vàng ròng cả trong lẫn ngoài và bên trong nó chứa đựng những phiến bia Thập giới và có lẽ cũng có một ít manna của sa mạc cũng như chiếc gậy của Aaron. Nhưng còn quan trọng hơn những vật nó chứa bên trong nhiều đó là cái bản bằng vàng ròng bên trên khám, chiều dài và chiều rộng đều y như khám. Ở hai mút có trang trí 2 Kêrubim. Cái bàn này gọi là “bàn xá tội”, máu các vật hy tế sẽ được vị thượng tế rảy trên bàn ấy trong ngày xá tội. Nhà tạm là chiếc lều bao bọc Khám được làm bằng một khung gỗ với những tấm màn che. Chúng ta được thuật lại rằng khi Môsê đã làm xong khám và đặt cái này bên trong cái kia, thì “Đám mây đã phủ trướng tao phùng và vinh quang Yavê đầy nhà tạm” (Xh 40, 34). Chiếc khám quả thật đã có một mục đích lưỡng diện: nó chứa đựng phiến bia ghi lời của Thiên Chúa, và quan trọng hơn nữa, nó là nơi cư ngụ của Đức Chúa, là ngai của Ngài hiện diện đặc biệt nơi trần thế giữa dân của Ngài.

http://media.tinngan.vn:6060/archive/images/2014/11/14/114237_17.jpg

Khi chúng ta xem kỹ những yếu tố của giao ước, mối tình liên hệ cha và con, sự Thiên Chúa và dân của Ngài được ràng buộc thành một gia đình, máu cộng đồng ý muốn của Thiên Chúa được bày tỏ trong Giới răn và sự Thiên Chúa hiện diện cách thân mật giữa dân của Ngài, tất cả những yếu tố đó mà người Israel gọi là Giao ước thì chúng ta sẽ được gọi là tôn giáo. Giao ước xưa nay là giao ước với Môsê, có nghĩa là tôn giáo xưa hay tôn giáo thời Môsê, chúng ta nói được như thế. Tư tưởng sơ đẳng đằng sau từ ngữ tôn giáo là một sự ràng buộc chung giữa Thiên Chúa và loài người. Giao ước mà Thiên Chúa đã lập với dân Ngài quả thật có mục đích đó. Thiên Chúa và loài người ràng buộc với nhau như cha con. Ý của cha đã thể hiện, người con hứa tuân theo. Và người cha ở lại với con đầu lòng của mình. Vậy cái tôn giáo mà Môsê đã truyền lại cho dân Israel đúng là một tôn giáo đầy đủ mọi khía cạnh.

Còn một nét nổi bật nữa trong tôn giáo này: sự thờ phụng bằng lể tế. Lễ tế có nhiều khía cạnh khác nhau nhưng một vài loại tổng quát chứng tỏ rằng chúng đã có từ thuở ban đầu của tôn giáo này. Có lễ hy tế trong đó toàn thể vật hy tế được lửa thiêu hủy trên bàn thờ; hy lễ thông hiệp trong đó một phần vật hy tế được thiêu hủy, phần còn lại dành cho các vị tư tế và người dâng lễ để họ chia sẻ với gia đình và bạn bè trong một bữa ăn cộng đồng; hy lễ xá tội trong đó sự rảy máu là một yếu tố nổi bật hơn cả: sự dâng rau quả (bột mì, trái cây đầu mùa), sự dâng hương và bánh lễ. Bánh lễ này gồm 12 miếng bánh mì xếp đặt thành hai hàng trên bàn trong Nhà tạm. Vào cuối tuần, các tư tế sẽ ăn những bánh ấy, rồi làm lại những cái khác. Chúng tượng trưng cho lời thề hứa giữa 12 chi tộc và Đức Chúa.

Những lễ tế này có một ý nghĩa rất sâu xa đối với dân Israel. Chúng được coi như là những vật cống hiến cho Vị có quyền trên muôn vật. Những của lễ thông hiệp càng làm tăng ý niệm hợp nhất. Như những lời giao ước ngày xưa đã được bảo chứng bằng một bữa ăn cộng đồng, cũng vậy lời giao ước này tức là tôn giáo giữa Thiên Chúa và gia đình của Ngài, đã được tăng cường bằng một bữa an mà Thiên Chúa, các vị tư tế và gia đình cũng như bằng hữu của người dâng lễ đều tham dự Lễ xá tội cho thấy rằng mọi người đều có sự ước muốn căn bản được đền tội. Tội lỗi là do sự lạm dụng những tạo vật của Thiên Chúa, do đó nó phải được đền bù lại bằng cách tự ý khước từ ngay cả một vài quyền sử dụng chính đáng các tạo vật.

Sau khi đã thêm lời phụ chú như thế về tế lễ, thì những yếu tố tôn giáo thời Môsê nói được là đầy đủ. Lịch sử cứu độ của thế giới đã bắt đầu một giai đoạn mới trong tiến trình của con người trở về Thiên Chúa và sự THIỆN HẢO của Thiên Chúa mà con người đã bỏ rơi khi mở cửa cho tội lỗi bước vào thế giới. Vai trò của Môsê trong việc truyền tôn giáo này lại cho loài người là vinh dự lớn lao nhất của ông. Ông vừa là vị cứu tinh vừa là người trung gian, và chắc chắn là nhiệm vụ thứ hai này quan trọng hơn nhiệm vụ thứ nhất nhiều.

Một điểm nữa về Môsê cũng dần được nhấn mạnh không những ông chỉ là vị cứu tinh và người trung gian, ông còn là vị tiên tri nữa. Tiên tri chỉ là một người nói thay cho người khác, một phát ngôn viên. Môsê là tiên tri của Thiên Chúa bởi vì ông nói thay cho Thiên Chúa, ông truyền đạt lại cho loài người những lời Thiên Chúa phán, sách Đệ nhị luật (Thứ luật)18, 15 chứa đựng lời hứa quan trọng của Môsê liên quan đến vai trò tiên tri của ông.

“Thiên Chúa sẽ cho chỗi dậy một tiên tri như tôi, giữa anh em các ngươi, các ngươi hãy nghe lời vị đó”.

Lời hứa của Môsê nói về vị tiên tri như ông là một lời hứa mà dân vẫn ghi nhớ xuyên qua các thế kỷ kế tiếp. Trong lịch sử của Israel về sau sẽ có nhiều tiên tri, mỗi vị như Môsê đều gữ vai trò phát ngôn viên cho Thiên Chúa, mỗi vị hoàn thành một phần nào lời hứa trong Đnl 18, 15. Tuy nhiên, dân Israel vẫn tiếp tục chờ mong một vị tiên tri xuất chúng, một Môsê mới, vị đó sẽ là thiên sứ tối hậu của Thiên Chúa.

Sự xuất hành khỏi nước Ai Cập và những biến cố tôn giáo trên đỉnh núi Sinai là hai biến cố trung tâm trong lịch sử Israel mà muôn đời phải ghi nhớ. Chúng làm thành nền tảng cho sự tôn thờ cộng đồng của dân chúng (nghi lễ) và đời sống cầu nguyện, cả hai đều là những việc để tưởng niệm quá khứ đồng thời để bảo đảm sự trợ lực cho hiện tại và tương lai. Xuyên qua việc tổ chức nghi lễ của hai biến cố này, những người Israel ở mọi thế kỷ đều có thể đích thân bước vào lời giao ước giữa Thiên Chúa và lễ tiến của họ. Nhất là sự xuất hành được nhắc lại hằng năm trong đời sống của mỗi người Israel. Hằng năm, nghi lễ vượt qua đã từng chứng kiến quang cảnh những gia đình đứng vây quanh bàn ăn và những người đàn ông trong tư thế sẵn sàng ra đi, chân mang dép, tay cầm gậy, áo xăn lên, ăn chiên vượt qua với rau đắng và bánh không men. Sự nhắc lại nghi lễ này là một việc biểu dương hằng năm niềm tin ở Thiên Chúa nhân từ và phép tắc. Ngài đã dẫn dắt dân Ngài ra khỏi chốn tù đày, đưa vào đất Ngài đã hứa với Abraham và miêu duệ của ông. Trọng tâm của nghi lễ này rất rõ ràng trong Xh 12,24-27:

“Các ngươi sẽ giữ điều ấy làm luật điều cho ngươi và con cái ngươi cho đến vạn đại. Vậy khi các ngươi đã vào đất Yavê sẽ ban cho các ngươi, như Ngài đã phán, và các ngươi giữ việc đạo này mà xảy ra là con cái các ngươi sẽ hỏi các ngươi: là gì vậy việc đạo đức các ngươi giữ đó? Thì các ngươi sẽ nói: ‘Đó là lễ tế chiên vượt qua dâng kính Đức Chúa, Đấng đã nhảy ngang qua nhà con cái Israel ở Ai Cập khi Ngài đánh phạt Ai Cập và đã cứu thoát nhà chúng ta’”.

Một sự biểu dương đức tin tương tự như thế cũng được thấy trong nghi lễ hiến dâng quả đầu mùa.

Tư tế sẽ lấy giỏ tự tay ngươi và ngài sẽ đệ lên trước tế đàn của Yavê Thiên Chúa của ngươi. Bấy giờ ngươi sẽ xướng lên và nói trước nhan Yavê Thiên Chúa của ngươi: “Cha tôi là một ngườiAramphiêu lạc; ngài xuống Ai Cập và đã ngụ nhờ ở đó với ít mạng người, nhưng ở đó Ngài đã nên một nước lớn lao, hùng hậu và đông đảo. Rồi người Ai Cập đã xử ác nghiệt với chúng tôi và đặt trên chúng tôi lao công cực khổ. Và chúng tôi đã kêu lên với Yavê Thiên Chúa của tổ tiên chúng tôi và Ngài đã nghe tiếng chúng ta, Ngài đã nhìn đến cảnh đọa đày, lầm than, áp bức chúng tôi phải chịu. Và Yavê đã đem chúng tôi ra khỏi Ai Cập với tay mạnh, cánh tay giương với khiếp đảm lớn lao, với dấu lạ và điềm thiêng. Ngài đã đem cuộc sống đến chỗ này, Ngài đã ban cho chúng tôi đất này, đất chảy tràn sữa mật”. (Thứ luật 26,4-9)

Đoạn văn này có thể gọi được là “Kinh tin kính” của dân Israel, một bản tím lược thật sự những điều họ biết về Thiên Chúa và về tính cách tôn giáo của họ.

Những nghi lễ trọng thể nhắc lại lời giao ước trên núi Sinai thường xuyên được tổ chức trong lịch sử kế tiếp của dân ấy. Khi Yôsua đã thành công cuối cùng trong việc đưa các chi tộc vào đất hứa, ông đã tổ chức một nghi lễ nhắc nhớ lại để cho những người tùy tùng của ông, vốn không được sống trong những ngày xảy ra biến cố cảm động ở núi Sinai, cũng có thể tự mình công nhận cái tôn giáo đã ràng buộc họ với Đức Chúa (xem Yôsua cố gắng 24). Việc Salomôn hiến dâng đền thánh như đã ghi chép trong sách “Các Vua 8,54-61 là một thí dụ khác về sự nhắc lại trọng thể lời giao ước. Nhưng cách tầm thường nhất để nhắc lại những hành động linh thiêng này trong tâm trí của dân chúng là sự đọc thánh vịnh hằng ngày. Rất nhiều bài thánh vịnh ca ngợi Thiên Chúa đã giải thoát dân Ngài khỏi Ai Cập và đã hợp nhất họ lại với Ngài như thể là con đầu lòng của Ngài. Những thánh vịnh 110 (111), 77 (78) và 104 (105) chỉ là một vài ví dụ trong những câu kinh có công dụng nhắc nhở như thế.


Lịch sử Cứu độ (3)Bây giờ chúng ta có thể nhìn lui lại để thử xem gia đình của Abraham, Isaac và Giacob-Israel đã bành trướng đông đảo như thế nào trong suốt thời kỳ cư ngụ ở Ai Cập; gia đình ấy đã trở thành một dân tộc chung trong sa mạc như thế nào, và dân tộc này đã trở thành một đoàn thể tôn giáo như thế nào, xuyên qua những hành động diệu kỳ của Thiên Chúa trên bán đão Sinai. Dân tộc này đã phải chịu nhiều năm nóng nực, lạnh lẽo, đói khát trong sa mạc nhưng tính tình của họ đã trở nên thuần thục.

Những năm có kỷ luật sau đó chỉ là những năm tiếp tục công trình giáo dục. Đó là những năm huấn luyện, huấn luyện sự vâng phục, nhất là huấn luyện lòng tin cậy ở sự quan phòng của Thiên Chúa, bởi vì sự phồn vinh vật chất của Môsê và của những người theo ông đều hoàn toàn lệ thuộc vào Thiên Chúa. Đó là những năm phục vụ trung thành nhưng rủi thay cũng bị hoen ố bằng những thời kỳ thất tín. Chính bản thân Môsê cũng đã có lần mất tin tưởng, vì thế ông không được ân huệ đặt chân vào Đất Hứa và dẫn đưa dân vào đó. Toàn thể câu chuyện được thuật lại trong sách Dân số và sách Thứ luật, hai quyển sách này cùng với sách Khởi nguyên, sách Xuất hành, sách Lêvi được gọi là Ngũ kinh của Môsê. Chương cuối cùng trong sách Thứ luật trình bày cho chúng ta quang cảnh cảm động những ngày cuối cùng của Môsê. Sau những năm dài thử thách trong sa mạc, ông và dân của ông đã tới một địa điểm nằm ngay ở phía Đông Canaan. Ở đó Môsê leo lên núi Nêbô trên vùng cao nguyên xứ Moab, từ đó ông có thể đưa mắt về phía Tây bên kia sông Giođan, nhìn vào Đất Hứa.

Và Đức Chúa phán với Môsê: “Đó là đất Ta đã thề với Abraham, Isaac và Giacob rằng: Ta sẽ ban nó cho dòng giống ngươi! Ta đã cho ngươi thấy tận mắt nhưng ngươi sẽ không qua đó!” Và Môsê tôi tớ Đức Chúa đã chết ở đó, trong xứ Moab, theo lệnh Yavê. Và người ta đã chôn cất ông trong thung lũng ở xứMoab, trước mặt Bet-poor, nhưng không ai biết được mộ ông cho đến ngày nay. Môsê thọ được 120 tuổi. Khi ông chết, mắt ông không lòa và khí lực không giảm. Con cái Israel đã khóc Môsê trong đồng bằng Moab 30 ngày, sau đó những ngày khóc tang Môsê đã mãn, trong dân Israel không còn chỗi dậy một tiên tri nào như Môsê, kẻ đã được Yavê biết đến diện đối diện, không một ai sánh được với ông về các dấu lạ điềm thiêng Đức Chúa đã sai ông làm ở đất Ai Cập trên Pharaô và tất cả bầy tôi cùng toàn xứ của Pharaô, hay là về sức mạnh và quyền lực kinh khủng Môsê đã biểu dương trước mặt toàn thể Israel. (Đnl 34,4-12)

(còn tiếp)

Neam M. Flanagan, CSM

Nguyên tác: Salvation History, 1964

Trích “Lịch sử Cứu độ”, tr. 29-42.

-------------------------------------
* Bài liên quan:

Lịch sử Cứu độ (1)

Lịch sử Cứu độ (2)