Thánh Mẫu học trong Giáo Hội từ Vatican II đến nay (1)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 4393 | Cập nhật lần cuối: 1/15/2015 9:13:14 AM | RSS

Ngày 21.11.1964, kết thúc phiên khoáng đại kỳ họp thứ III của Công Đồng Vatican II, Đức Phaolô VI và các Nghị Phụ đã chính thức thông qua và công bố "Hiến Chế Về Giáo Hội" (Lumen Gentium). Nhân kỷ niệm 50 ban hành Hiến chế Lumen Gentium, xin được giới thiệu bài viết "Thánh Mẫu Học Từ Vatican II Đến Nay" của tác giả Salvatore M. Perrella, O.S.M. Trong bài này, tác giả muốn trình bày những đường hướng của Thánh Mẫu học [2] (viết tắt: TMH) từ công đồng Vatican II đến nay. Trước hết, chúng ta hãy theo dõi những cuộc tranh luận trong giai đoạn chuẩn bị và nhóm họp công đồng (1959-1965). Sau đó, chúng tôi sẽ điểm qua những vấn đề được nêu lên từ sau công đồng cho đến nay.

I. CÔNG ĐỒNG VATICAN II

Ngày 25 tháng giêng 1959, đức thánh cha Gioan XXIII tuyên bố triệu tập một công đồng Vaticanô II. Khác với những công đồng trước đây nhắm mục tiêu tín lý và kỷ luật, lần này công đồng muốn tìm hiểu bản tính và sứ mạng của Hội thánh để đối thoại với thời đại.

Công đồng đã diễn ra qua ba giai đoạn: tiền chuẩn bị (25.1.59 đến 5.6.60); chuẩn bị (5.6.60 đến 11.10.62); cử hành (11.10.1962 đến 8.12.1965).

1.1. Những cuộc tranh luận

Trong giai đoạn tiền chuẩn bị, đã có hơn 600 giám mục yêu cầu công đồng quan tâm đến Đức Maria, bởi vì là một đề tài quan trọng liên quan đến mầu nhiệm nhập thể của Chúa Kitô. Tuy nhiên, khi đúc kết các ý kiến, người ta đã thấy hai khuynh hướng khác nhau: một bên thì tiếp nối “TMH của vinh quang Đức Maria” cổ điển, yêu cầu định tín các chân lý về “Đức Mẹ đồng công cứu chuộc”, “Trung gian các ơn”, “Mẹ thiêng liêng của mọi tín hữu”[3]; bên kia thì yêu cầu chú ý đến Kinh thánh cũng như đối thoại đại kết. Khuynh hướng thứ nhất được đặt tên là “quy Kitô” (christotypus), nghĩa là nhìn đức Maria trong tương quan với Đức Kitô; khuynh hướng thứ hai được đặt tên là “quy Hội thánh” (ecclesiotypus)[4]nhìn Đức Maria trong tương quan với Hội thánh.

Thực ra vào những thập niên 50 của thế kỷ XX, người ta đã thấy sự chuyển hướng của TMH trong trào lưu canh tân thần học nhờ các phong trào Kinh thánh, giáo phụ, phụng vụ, đại kết).

- Khuynh hướng cổ điển từ sau công đồng Trentô, dựa theo phương pháp diễn dịch, muốn đề cao những đặc ân của Đức Maria dựa trên chức vị “Mẹ Thiên Chúa”. TMH được nhìn song song với Kitô học: những tước hiệu của Mẹ Maria phản ánh những tước hiệu của Đức Kitô, chẳng hạn như : “Đồng công cứu chuộc” (Corredemptrix) song hành với “Cứu thế” (Redemptor), “Nữ Vương” (Regina) song hành với “Vua” (Rex).

- Khuynh hướng thứ hai chủ trương đi sát với Kinh thánh hơn, tìm cách đưa Đức Maria vào trong Hội thánh, nhìn Người như một “kẻ đã tin” (K. Rahner), “tiêu biểu của Hội thánh” (O. Semmelroth).

Uỷ ban chuẩn bị đã đúc kết các ý kiến của các giám mục thành nhiều lược đồ, sửa đi sửa lại. Vào năm 1962, uỷ ban thần học đã đệ trình các nghị phụ lược đồ mang tựa đề De beata Maria Virgine Matre Dei et Matre hominum (Đức Trinh nữ Maria, Mẹ của Thiên Chúa và Mẹ của loài người), dựa theo lối tiếp cận cổ truyền. Tuy nhiên, tại công đồng, một số nghị phụ đã yêu cầu bàn về Đức Maria trong lược đồ về Hội thánh, thay vì soạn một văn kiện độc lập. Một cuộc tranh luận đã diễn ra giữa hai nhóm ngang nhau. Cuối cùng, đức thánh cha Phaolô VI quyết định cho bỏ phiếu để lấy đa số. Cuộc bỏ phiếu diễn ra ngày 29-10-1963 đã đưa đến kết quả như sau: trên tổng số 2193 phiếu, thì 1114 tán thành bàn về Đức Maria trong lược đồ về Hội thánh, 1074 muốn bàn trong một lược đồ riêng, 7 phiếu vô hiệu. (Như vậy số phiếu chênh lệch giữa đôi bên là 40). Một tiểu ban đã được cử ra để soạn lại văn kiện. Vào đầu khóa thứ ba (cuối tháng 9 năm 1964), các nghị phụ đã nhận được lược đồ mới, trong đó Đức Maria được đặt ở chương cuối của lược đồ về Hội thánh, tựa như chóp đỉnh. Tựa đề của chương 8 là “De BeataMaria Virgine Deipara in mysterio Christi et Ecclesiae” (Đức Trinh nữ Maria Thiên mẫu trong mầu nhiệm Đức Kitô và Hội thánh). Sau những cuộc tranh luận, các nghị phụ đã bỏ phiếu với kết quả như sau: trên tổng số 2091 phiếu thì 1559 thuận, 10 chống, 521 thuận với yêu cầu sửa đổi (iuxta modum), 1 vô hiệu. Bản văn được trả về cho uỷ ban để sửa đổi. Sau cùng, ngày 21-11-1964, các nghị phụ đã bỏ phiếu toàn bộ hiến chế Lumen gentium: trên tổng số 2156 vị hiện diện, 2151 thuận và 5 chống. Cùng ngày hôm đó, đức Phaolô VI ban hành hiến chế và tuyên bố Đức Maria là Mẹ của Hội thánh.

1.2. Bản văn công đồng: những tiêu chuẩn soạn thảo

Bản văn được soạn thảo dựa trên bốn tiêu chuẩn: Kinh thánh, nhân văn, đại kết, mục vụ[5].

- Kinh thánh. Bản văn được soạn thảo dựa theo tư tưởng Kinh thánh, được giải thích trong truyền thống Giáo hội. Khi bàn về mầu nhiệm Đức Maria (số 55-59), bản văn cho thấy mầu nhiệm của Chúa Cứu thế được tỏ lộ dần dần trong lịch sử cứu độ, cũng như những hình ảnh về Đức Maria trong Cựu ước (tựa như: thiếu nữ Sion, nữ tì Thiên Chúa), nhằm nêu bật vai trò của Người trong kế hoạch Thiên Chúa, hơn là dừng lại ở vài bản văn để bênh vực các tín điều.

- Nhân văn. Bản văn chú trọng đến giá trị của nhân vị, của sự tự do trong việc đáp trả chương trình của Thiên Chúa, và cũng không quên cảm nghiệm đêm tối của đức tin. Lối trình bày này cho thấy Đức Maria gần gũi với chúng ta hơn là phương pháp cổ điển (đề cao các đặc ân của Mẹ).

- Đại kết. Trong quá khứ, TMH đã trở thành đề tài tranh cãi giữa Công giáo và Cải cách (mater divisionis). Công đồng cố gắng tìm cách để Đức Maria trở thành một yếu tố liên kết các Kitô hữu (mater unionis), nhờ việc theo sát tư tưởng Kinh thánh về vai trò của Người trong chương trình cứu độ.

- Mục vụ. Công đồng không muốn trình bày một thiên khảo luận về TMM nhưng tìm cách giúp các tín hữu nuôi dưỡng đức tin và lòng đạo đức khi chiêm ngắm một mẫu gương tuyệt vời của đời sống Kitô hữu.

1.3 Bản văn công đồng: nội dung

Tựa đề của chương VIII (“Đức Trinh nữ Maria Thiên mẫu trong mầu nhiệm Đức Kitô và Hội thánh”) đã muốn nói lên sự tổng hợp hai khuynh hướng TMH trong công đồng, bằng cách đặt Đức Maria trong tương quan với Chúa Kitô và với Hội thánh. Có thể nói được là “từ khóa” giải thích toàn bản văn là “mầu nhiệm”, đã được dùng làm tựa đề cho chương đầu của hiến chế. “Mầu nhiệm”, theo thánh Phaolô (x. Cl 1,26; Ep 3,9; Rm 16,25), được hiểu về kế hoạch của Thiên Chúa, trước đây được giấu ẩn và nay được mạc khải nơi Đức Kitô. Đức Maria được nhìn trong viễn tượng của “mầu nhiệm” ấy, nghĩa là trong tương quan với Đức Kitô và với Hội thánh: người được Thiên Chúa tuyển chọn để phục vụ Đức Kitô (chức phận môn đệ, nữ tì, mẹ của Đấng Mêsia) và phục vụ Hội thánh.

Tuy là một chương của hiến chế Lumen gentium, nhưng chương VIII có một bố cục gần như một văn kiện biệt lập. Điều này dễ hiểu, bởi vì chương này được soạn thảo do một tiểu ban riêng biệt, khác với uỷ ban thần học soạn thảo hiến chế. Nội dung gồm 17 số (từ 52 đến 69), được phân làm 5 đoạn.

1/ Dẫn nhập (số 52-54)

Đức Maria được đặt trong chương trình cứu độ của Thiên Chúa: khi đến thời viên mãn, Ngôi Lời đã nhập thể trong lòng Đức Trinh nữ do quyền năng của Thánh Thần, ngõ hầu loài người được trở nên con cái Thiên Chúa (x. Gl 4,4-5). Sự hạ cố của Thiên Chúa được tiếp nối trong Hội thánh, nơi mà các phần tử, ngoài việc kết hợp với đức Kitô, còn liên kết với tất cả các thánh và tôn kính Thánh mẫu. Như vậy, một đàng Đức Maria được nhìn trong tương quan với Chúa Ba Ngôi, đàng khác cũng nêu bật địa vị của Người trong Hội thánh (nền tảng của việc tôn kính đặc biệt).

2/ Đoạn thứ hai (số 55-59) bàn về vai trò của Đức Maria trong lịch sử cứu độ. Dựa theo các bản văn Kinh thánh, công đồng trình bày sự góp phần của Người trong việc phục vụ Chúa Cứu thế từ lúc nhập thể đến lúc hiến mình trên thập giá, qua những chặng đường chính của cuộc đời Đức Giêsu: lúc truyền tin (số 56), thời thơ ấu (số 57), đời công khai (số 58), cuộc phục sinh và lên trời (số 59). Đức Maria luôn gắn bó chặt chẽ với Đức Kitô như là người mẹ và tôi tớ, bằng sự đồng thuận của đức tin (số 56). Người hoàn toàn hiến thân phục vụ Đức Kitô, chấp nhận làm mẹ thể lý của Chúa và mẹ tinh thần của các môn đệ (số 58), khi khẩn nài tại Cana và khi đi theo làm môn đệ (số 58), khi âu yếm chịu đau khổ và hiến dâng Con trên thập giá và chấp nhận làm mẹ của người môn đệ yêu dấu (số 58). Ở số 56 và 61, công đồng khẳng định rằng sự liên kết giữa Đức Kitô và Mẹ Maria diễn ra do ý định của Thiên Chúa. Một đàng, chương trình cứu độ của Thiên Chúa mang tính ban không (ân huệ), đàng khác, Thiên Chúa cũng muốn cho con người đáp trả cách tự do, ý thức và yêu mến. Điều này được áp dụng nơi Đức Maria. Tính cách ban không được tỏ lộ nơi đặc ân vô nhiễm nguyên tội (số 53; 59) cũng như ơn được trở nên đồng hình đồng dạng với Chúa Phục sinh qua việc đưa hồn xác về trời. Sự hợp tác được diễn ra qua sự đáp trả bằng đức tin (số 58). Tóm lại, ở đoạn này, Đức Maria được nhìn trong tương quan với công trình cứu độ của đức Kitô, dưới những hình ảnh “thiếu nữ Sion”, “nữ tì Thiên Chúa”, “Thân mẫu Đấng Cứu thế”.

3/ Đoạn thứ ba, - về tương quan giữa đức Maria và Hội thánh (số 60-65) -, mở đầu với việc khẳng định đạo lý về Đức Kitô là trung gian duy nhất (x. 1Tm 2,5-6). Trong bối cảnh này, công đồng bàn đến vai trò của Đức Maria đối với nhân loại, đó là cộng tác với Chúa Kitô (số 61) và chuyển cầu cho sự thánh hoá những kẻ đã được cứu chuộc (số 62)[6].

Tuy nhiên, địa vị độc nhất của Đức Maria trong chương trình cứu độ không đặt Người ra khỏi Hội thánh. Người thuộc về Hội thánh như là một phần tử ưu tú (số 53), như là mẫu gương các nhân đức (số 53, 63, 65), người mẹ rất yêu dấu (số 65). Dựa theo tư tưởng của các giáo phụ, công đồng đã coi Đức Maria là “biểu trưng” (typus) của Hội thánh, dù xét theo điều kiện của loài thụ tạo cần được cứu rỗi (số 53), dù xét theo địa vị vinh hiển, bởi vì Người là hình ảnh và hoa trái đầu mùa của Hội thánh sẽ được hoàn tất trong tương lai (số 68). Đối lại, Hội thánh cần trông lên Đức Maria để chu toàn sứ mạng của mình: là mẹ vì sinh ra con cái thiêng liêng nhờ tác động của Thánh Thần, là trinh nữ vì duy trì niềm tin tinh tuyền vào Hôn phu (số 64). Vì thế, càng chiêm ngắm Đức Maria, Hội thánh càng ý thức hơn sứ mạng của mình là phục vụ Chúa Kitô (số 65).

4/ Đoạn thứ bốn được dành cho “việc tôn kính Đức Maria trong Hội thánh” (số 66-67).

Công đồng giải thích: bản chất và nền tảng của việc tôn kính, tinh thần phải tuân giữ trong việc giảng thuyết cũng như trong việc thực hành. Lòng tôn kính Đức Mẹ không phải là cái gì ngoại lai nhưng phát sinh từ chính mạc khải. Việc tôn kính Đức Mẹ, đặc biệt là trong khung cảnh của phụng vụ, gắn liền với biến cố Chúa Cứu chuộc; nó biểu lộ lòng biết ơn đối với Chúa, Vì thế việc tôn kính Đức Mẹ tuỳ thuộc vào việc tôn thờ Chúa, và có sự khác biệt giữa hai bên (số 66).

5/ Đoạn cuối cùng của chương VIII (Đức Maria, dấu chỉ của niềm hy vọng chắc chắn và của niềm an ủi của dân Chúa trên đường lữ hành) muốn giới thiệu Thân mẫu của Chúa Giêsu như là dấu chỉ và biểu tượng cho niềm hy vọng cánh chung.

Đức Maria là một dấu lạ vĩ đại (signum magnum: Kh 12, 1), được Chúa Cha ban cho những kẻ được Đức Kitô cứu chuộc, như là niềm an ủi cho Hội thánh, giữa cuộc đời lữ thứ đầy thử thách. Hội thánh được mời gọi nhìn lên Đức Maria trên trời như hình ảnh của tương lai vĩnh cửu, để tìm thấy sự ánh sáng, an ủi, niềm vui (số 68).

Trong số cuối cùng (số 69), công đồng bày tỏ sự hiệp thông, hân hoan và biết ơn đối với các giáo hội ngoài công giáo cũng bày tỏ lòng tôn kính với Thân mẫu của Chúa Giêsu, đặc biệt là nơi các Giáo hội Đông phương (x. Sắc lệnh về sự hợp nhất Unitatis redintegratio, số 15)[7].

II. SAU CÔNG ĐỒNG VATICAN II

Sau công đồng, TMH đã trải qua nhiều cuộc thăng trầm, không những giống như các môn thần học khác, nhưng còn vì gắn liền với lòng đạo đức bình dân kính Đức Mẹ. Chúng tôi sẽ điểm qua những biến chuyển trong lãnh vực thần học cũng như trong các lãnh vực đạo đức.

2.1. Những nền thần học mới

Vào những thập niên 70 của thế kỷ XX, nhiều nền thần học mới đã ra đời và cũng sớm tan. Người ta tìm một ngôn ngữ mới để truyền đạt đức tin cho thời đại hôm nay, nhưng lý tưởng này không dễ dàng gì đạt được.

Về phía Tin lành, nổi bật nhất là “thần học về sự trần tục hóa” (theology of secularization), “thần học về cái chết của Thiên Chúa” (theology of the death of God), thần học nữ quyền (feminist theology). Về phía công giáo là “thần học chính trị” (political theology), “thần học về các thực tại trần thế” (theology of earthly realities). Nhưng có lẽ luồng tư tưởng ảnh hưởng sâu rộng hơn cả là “thần học giải phóng” (liberation theology) tại châu Mỹ Latinh, với những suy tư về vai trò của Đức Maria, biểu tượng của sự giải phóng người nghèo (điển hình qua kinh Magnificat), một phụ nữ dám dấn thân cho tha nhân (chứ không phải là một phụ nữ thuỳ mị, quanh quẩn với chuyện nội trợ). Vào lúc đầu, thần học giải phóng đã gặp nhiều vấn nạn từ phía Tòa thánh (vì bị tố cáo là nhiễm mùi mác-xít), nhưng dần dần đã được hàng giám mục tại lục địa này nhìn nhận giá trị và đưa vào đường hướng mục vụ của mình.

Dù sao, bầu khí chung của thần học vào lúc ấy là viết lại các sách thần học theo lối tiếp cận mới, vừa muốn trung thành với Kinh thánh hơn, vừa muốn đi sát với những thực tại văn hóa xã hội hơn.

2.2. Xét lại đạo lý cổ truyền

Cách riêng, vào những năm liền sau công đồng, TMM đã trải qua một cuộc khủng hoảng do nhiều nguyên nhân khác nhau.

Một số người cho rằng công đồng Vatican II không phải là đích điểm mà chỉ là khởi điểm của một cuộc thay đổi lòng tin và cuộc sống Kitô hữu. Đang khi ngoài xã hội, các cuộc nổi loạn của sinh viên vào những năm 1967-68 đã làm lung lay nhiều định chế chính trị giáo dục, thì trong Giáo hội cũng có những trào lưu thách thức quyền bính giáo hội trong lãnh vực đức tin và kỷ luật. Một trường hợp tiêu biểu là luồng chống đối thông điệp Humanae vitaecủa đức Phaolô VI (25-7-1968). Trong bối cảnh đó, TMH cũng trải qua một cuộc khủng hoảng kéo dài suốt mười năm từ khi bế mạc công đồng. Ít người để ý đến những đường hướng canh tân của chương VIII, mà chỉ muốn tẩy chay những tập tục “tiền công đồng” trong đó có những việc đạo đức bình dân (chẳng hạn lần chuỗi Mân côi). Điều trầm trọng hơn nữa là các tín điều cổ truyền về Đức Maria cũng bị đánh dấu hỏi.

Những nguyên nhân gây ra khủng hoảng TMH khá phức tạp, gắn liền với khung cảnh xã hội. Những nguyên nhân chấm dứt cuộc khủng hoảng cũng không dễ giải thích. Dù sao, chúng ta nên ghi nhận những văn kiện quan trọng của huấn quyền trong giai đoạn này:

- Đức Phaolô VI: tông huấn Signum magnum, được ban hành nhân dịp kỷ niệm 50 năm Fatima (13.5.1967); Kinh Tin kính của Dân Chúa (30.6.1968, bế mạc Năm đức tin); tông huấn Marialis cultus (2.2.1974).

- Đặc biệt là đức Gioan Phaolô II đã đẩy mạnh những suy tư về vai trò của Đức Maria trong chương trình cứu độ (thông điệp Redemptoris mater 25.3.1987) cũng như cổ động những thực hành sùng kính Đức Mẹ.

Hai văn kiện Marialis cultusRedemptoris mater không những đào sâu đạo lý của công đồng nhưng còn vạch ra bốn tiêu chuẩn cho cuộc canh tân TMH: a) dựa vào Kinh thánh; b) hòa hợp với phụng vụ; c) mở rộng đến chiều hướng đại kết; d) lưu tâm đến văn hóa thời đại. Riêng đối với tiêu chuẩn thứ bốn, tông huấn Mulieris dignitatem (Phẩm giá phụ nữ, 15.8.1988)” của đức Gioan Phaolô II đã muốn trả lời cho những yêu sách chính đáng của phong trào phụ nữ hiện đại.

Những lần can thiệp của huấn quyền đã thúc đẩy các nhà thần học chú ý hơn đến Đức Maria, một nhân tố không phải là thứ yếu của đức tin Kitô giáo. TMH dần dần lại được đưa vào giảng dạy ở các phân khoa thần học, và được nhìn dưới nhiều tương quan: với Chúa Ba ngôi, với Đức Kitô, với Hội thánh, với nhân học[8].

Chúng ta hãy theo dõi cuộc canh tân TMH từ những góc độ khác nhau: nghiên cứu Kinh thánh, lịch sử tín điều, đối thoại đại kết, hội nhập văn hóa.

Thánh Mẫu học trong Giáo Hội từ Vatican II đến nay (1)

2.3 Đức Maria trong Kinh thánh

Cũng như những ngành thần học khác, TMM cần phải dựa vào Kinh thánh như nguồn mạch nền tảng. Thực ra, trong quá khứ, người ta cũng tìm trong Kinh thánh những đoạn văn minh chứng những đặc ân của Đức Maria; nhưng đó là lấy Kinh thánh để bổ túc cho đạo lý thay vì để cho đạo lý dựa theo Kinh thánh. Điều này hàm ngụ rằng có nhiều phương pháp sử dụng Kinh thánh.

Các bản văn Tân ước nói về đức Maria cách trực tiếp thì không nhiều lắm: khoảng chừng 150 câu, rải rắc trong bốn cuốn Tin mừng và sách Tông đồ công vụ. Tuy nhiên, nếu các đoạn văn ấy được đọc trong bối cảnh của Cựu ước và những chú giải của Hội thánh tiên khởi, thì ta đã được một bức chân dung về vai trò của Đức Maria trong chương trình của Thiên Chúa.

Áp dụng phương pháp phê bình lịch sử, điều đầu tiên cần lưu ý là Tân ước không viết một tiểu sử về cuộc đời Chúa Giêsu, và lại càng không nhằm kể lại cuộc đời của đức Maria. Vì thế cần phải đọc các bản văn trong viễn cảnh của người viết.

Theo các nhà chú giải, tiến trình thành hình các sách Phúc âm đã trải qua ba giai đoạn sau đây:

- giai đoạn sự kiện (những lời nói và việc làm của Đức Giêsu);

- giai đoạn thông truyền các sự kiện (kèm theo việc giải thích ý nghĩa của chúng dưới ánh sáng đức tin);

- giai đoạn sáng tác, trong đó mỗi tác giả thuật lại các biến cố theo cái nhìn thần học của mình.

Các bản văn của sách Phúc âm thuộc về giai đoạn thứ ba, thuật lại câu chuyện về Đức Giêsu dưới ánh sáng của cuộc Tử nạn và Phục sinh. Sách Phúc âm được viết để công bố một “Tin mừng”, đó là Thiên Chúa đã ban ơn cứu độ cho nhân loại nhờ Đức Giêsu. Sách Phúc âm không chủ tâm đề cao Đức Giêsu như một siêu nhân giống như các huyền thoại của các tôn giáo khác, vì thế không dừng lại ở các chi tiết ly kỳ của cuộc đời của nhân vật ấy. Mục tiêu của sách Phúc âm là giúp các độc giả tin vào Đấng mang lại ơn cứu độ. Nhiều người muốn đi từ sách Phúc âm (giai đoạn thứ ba) và quay ngược trở về các sự kiện (giai đoạn thứ nhất), nhưng không đạt được kết quả mong muốn. Nếu các sách Phúc âm không cung cấp nhiều dữ liệu để viết một tiểu sử về Đức Giêsu, thì mong gì sẽ tìm được dữ liệu về tiểu sử Mẹ Maria?

Tân ước chỉ để lại vài bức tranh rời rạc về Đức Maria. Những bản văn ấy nói lên điều gì?

Dữ kiện chắc chắn nhất của Tân ước về Đức Maria là: đây là một phụ nữ có thực, tên là Maria (Mc 6,3; Mt 1,16.18; Lc 1,27.30; Cv 1,14); bà là mẹ của Đức Giêsu. Ngoại trừ việc sinh hạ đồng trinh Người Con của Thiên Chúa (Mt 1,18-25; Lc 1,26-38), Tân ước trình bày cho thấy chân dung của Đức Maria như một phụ nữ sống đời bình thường (khác với các thần thoại) giữa lòng dân tộc, với đầy tình người, quan tâm đến tha nhân. Người là một phụ nữ biết suy tư, lắng nghe, hỏi han, lo lắng cho người khác (x. cuộc thăm viếng bà Elizabeth, tiệc cưới Cana), một con người sống lòng tin.

Trong “Tin mừng thơ ấu”, Matthêu và Luca cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin khác. Tuy phát xuất từ những nguồn khác nhau, nhưng cả hai đều có những điểm chung: đức Giêsu thuộc dòng dõi vua Đavit (Mt 1,16.20; Lc 1,27; 2,25); việc thụ thai trinh khiết (Mt 1,18-25; Lc 1,26-38; 2,6-7); sự can thiệp của Thánh Thần (Mt 1,18.20; Lc 1,35); việc nhấn mạnh đến sự trinh khiết của đức Maria (Mt 1,16; Lc 1,27); cuộc hôn nhân với thánh Giuse (Mt 1,16; Lc 1,27: 2,25); việc đặt tên Giêsu do lệnh trời (Mt 1,21; Lc 2,11); đức Giêsu là đấng cứu vớt muôn dân (Mt 1,21; Lc 2,11); đức Giêsu sinh ra tại Bêlem (Mt 2,5; Lc 2,11); đức Giêsu trải qua thời thơ ấu tại Nazareth cùng với đức Maria và thánh Giuse (Mt 2,23; Lc 2,39).

Tuy được Thiên Chúa tuyển chọn đặc biệt, nhưng Đức Maria cũng không tránh khỏi những giây phút căng thẳng khi sống bên cạnh mầu nhiệm Con Thiên Chúa làm người. Mặc dù Đức Giêsu chấp nhận sống trong gia đình của Đức Maria như một người con thảo hiếu (Lc 2,16-19.48-50), nhưng bà mẹ cảm thấy mình không thể nào chiếm hữu được người con ấy bởi người con này đã hiến dâng trót đời mình cho Thiên Chúa (Lc 2,49). Truyền thống Tin mừng không giấu diếm mối tương quan khó khăn giữa Chúa Giêsu với thân mẫu trong thời kỳ hoạt động công khai (Mc 3,20-21.31-35 ss; Lc 11,27-28; x. Ga 7,1-13).

Mặt khác, các bản văn Kinh thánh đều cho thấy Đức Maria luôn có mặt ở những biến cố trọng đại của công trình cứu chuộc của Chúa Giêsu: - Lúc Nhập thể, khi thời gian tới hồi viên mãn, do tác động huyền nhiệm của Thánh Thần, Đức Maria đã sinh hạ Con của Đấng Tối cao làm người. - Trong mầu nhiệm Vượt qua, khi Đức Giêsu hoàn tất công cuộc cứu chuộc bằng sự tự huỷ, thì Đức Maria hiện diện như người Nữ của “giờ” của Chúa (Ga 19,25-27). - Vào lúc khai nguyên của Hội thánh, Đức Maria, “thân mẫu của Chúa” (Cv 1,14) đã hiện diện với các tông đồ tại nhà Tiệc ly, như là ký ức và bà mẹ của “biến cố Đức Kitô”, khởi điểm của Hội thánh. Người ở “trong” và “với” Hội thánh.

Người là mẫu gương của “kẻ đã tin” (Lc 1, 45), luôn nghiền ngẫm Lời Chúa (Lc 2,19.51), sẵn sàng luôn để cho Thánh Thần hướng dẫn.

Việc trở về Kinh thánh không chỉ giúp cho công tác suy tư thần học có nền tảng vững chắc, nhưng còn góp phần cho việc đối thoại với các giáo hội Cải Cách.

(còn tiếp)

Salvatore M. Perrella, O.S.M.[1]

Lm. Giuse Phan Tấn Thành, OP. lược dịch

Nguồn: daminhvn.net (11/2014)

--------------------------------------------

[1] Tác giả là giám đốc Học viện “Marianum” (Rôma) chuyên về Thánh mẫu học. Nguồn: “Percorsi teologici postconciliari. Dalla Lumen gentium ad oggi”, in: Maria nel Concilio, Centro di Cultura Mariana, Roma 2006, p.175-312. Tuy được viết cách đây 10 năm, nhưng bài này không mất tính thời sự. Trong khuôn khổ của một bài báo, chúng tôi chỉ tóm lược những ý chính chứ không dịch sát nguyên văn, cũng như cắt bỏ các chú dẫn thư mục.

[2] Nên lưu ý là trong các ngôn ngữ châu Âu, “Thánh-mẫu-học” là mariologia (hoặc marialogia), dịch sát là “Maria-luận” (khảo luận về Maria). Thuật ngữ này được sử dụng lần đầu tiên vào năm 1602 do cha Placido Nigido S.J. trong tựa đề tác phẩm Summae sacrae mariologicae pars prima. Có người thích dùng thuật ngữ theologia marialis.

[3] Chúng ta đừng quên rằng trong hai thế kỷ XIX và XX, Hội thánh đã tuyên bố hai tín điều về Đức Maria: Vô nhiễm nguyên tội (8-12-1854) và Hồn xác lên trời (1-11-1950), thêm vào hai tín điều đã có từ thời các giáo phụ (Mẹ Thiên Chúa - Trinh khiết trọn đời). Việc “đề cao” Đức Maria cũng nhằm chống lại phong trào Cải cách loại trừ mọi môi giới của con người trong chương trình cứu chuộc, dựa theo nguyên tắc của Lutêrô: a) solus Christus (duy Đức Kitô là Đấng cứu độ, trung gian duy nhất), b) sola gratia (duy chỉ nhờ ân sủng mà chúng ta được cứu độ), c) sola fides (duy chỉ nhờ đức tin mà chúng ta nhận được ơn nên công chính), d) sola Scriptura (duy chỉ Kinh thánh là nền tảng đức tin).