Người cha hiền đáng kính

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 4246 | Cập nhật lần cuối: 12/13/2014 9:50:43 PM | RSS

Người cha hiền đáng kínhCách đây mười năm, ngày Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình về Nhà Cha (1.7.1995), chúng tôi còn đang là đại chủng sinh của Chủng viện thánh Giuse Saigòn. Đại Chủng viện rất vinh dự được Đức Tổng chọn làm nơi an dưỡng trong những năm cuối đời. Đặc biệt hơn, sau khi tạ thế, Đức Tổng còn gởi lại thân xác của mình trong nhà nguyện Đại Chủng viện.

Những kỷ niệm mà Đức Tổng để lại trong thời gian an dưỡng tại Đại Chủng viện, dù đã mười năm qua, chúng tôi vẫn còn nhớ như in. Chúng tôi muốn ghi lại những kỷ niệm ấy như một lá thơ gởi đến Người Cha Chung của giáo phận sau mười năm xa cách. Đó cũng là tâm tình biết ơn dâng kính Đức Tổng mà mỗi chủng sinh ngày ấy, và linh mục hôm nay, muốn thể hiện.
Cuộc chia tay nào cũng để lại sự bùi ngùi tiếc nhớ. Cha ra đi để lại nơi mỗi chúng con niềm thương nhớ lớn lao.

Mỗi lần có dịp về thăm mái nhà Chủng viện, chúng con như còn thấy đâu đây những dấu vết của người cha khả kính. Bởi vậy mà niềm thương nhớ của chúng con sâu lắng và da diết hơn.
Chúng con nhớ, hồi sức khỏe cha còn khá, dù bận rộn với nhiều công việc của giáo phận, cha đã không ít lần đến thăm chúng con. Giữa cuộc sống đầy bon chen vụ lợi, cha dạy chúng con: "Các anh phải biết yêu thương chân thành". Trong lòng cuộc sống đó, mỗi người đều có những ngày vui, những ngày hạnh phúc, hay những ngày đau khổ, những ngày bất an, cha dạy chúng con "Các anh phải cầu nguyện, các anh phải thấy cuộc đời mình thuộc về Chúa".

Sau này, khi sức khỏe trở nên yếu nhiều, nhất là sau những cơn đau ngặt nghèo, cha thường ra Vũng Tàu nghỉ ngơi. Sau những lần trở về thánh phố, vào những buổi chiều, khi sức khỏe khá hơn, cha đều vào thăm chúng con. Có khi là những giờ giải trí, cha ngồi nhìn chúng con chơi thể thao. Vốn là người yêu thích thể thao, Cha như vui lây với chúng con trong từng đường banh, từng cú đập bóng chuyền vừa mạnh vừa dứt khoát của chúng con. Có khi cha vào thăm chúng con qua những lần huấn đức, hay những buổi chuyện trò...

Chúng con còn nhớ rất rõ một trong những lần huấn đức ấy. Đó là chiều ngày 4.12.1993. Những lời căn dặn chân thành của một người cha, lời dạy nghiêm túc của một người thầy ngày ấy, rất cần cho đời sống linh mục của chúng con hôm nay, khiến chúng con nhớ mãi. Ngày hôm ấy, cha nêu lên cho chúng con hình ảnh thánh Gioan Tiền hô, người dọn đường của Chúa Cứu Thế. Để tiến đến chức linh mục, người chủng sinh phải "dọn đường" bằng tu rèn đạo đức, tri thức... Những chủng sinh của cha ngày ấy, bây giờ đã là linh mục, nhưng tất cả đều hiểu rằng, không chỉ chủng sinh mới "dọn đường". Người linh mục càng cần phải "dọn đường" nhiều hơn để luôn đánh thức mình, để đừng bao giờ ngủ vùi trong sự tự mãn, trong an phận mà không cần cố gắng, không cần làm giàu kinh nghiệm đạo đức, kinh nghiệm mục tử của mình.

Cũng buổi chiều hôm ấy, cha còn dùng chính tấm gương mục tử của Chúa Giêsu để dạy chúng con: Người mục tử phải biết yêu thương, chăm sóc, dạy dỗ đàn chiên. Con chiên nào lạc bầy, người mục tử nhân lành không những đi tìm chúng, nhưng khi tìm được rồi, còn vác chiên lên vai trở về trong niềm vui lớn lao (Lc 15, 5). Cha còn căn dặn chúng con dứt khoát không vướng víu với tiền bạc: "Một linh mục ham tiền không phải là mục tử tốt lành". Lời của cha còn đó, âm vang mãi trong lòng chúng con.

Khoảng thời gian gần hai năm cuối đời, vì biết sức khỏe mình đã yếu, cha vào ở hẳn trong Đại Chủng viện để được gần gũi với chúng con. Chúng con không thể quên đêm 24.12.1994, trước khi cử hành thánh lễ mừng Chúa Giáng sinh, cha ngồi trên xe lăn và chúng con đưa cha đi xem hang đá, xem cách trang hoàng chủng viện của chúng con. Và trong giờ canh thức Giáng sinh, chính cha đã ban huấn từ khai mạc.

Chúng con nhớ mãi ngày hội thao chào mừng lễ thánh Cả Giuse, bổn mạng Chủng viện, 20.3.1995, do chính tay cha cắt băng khai mạc.

Sáu ngày sau đó, 26.3.1995, chúng con lại kéo nhau đến chúc mừng tuổi linh mục của cha tròn 58 năm. Lần này cha chia sẻ với chúng con về tình yêu Thiên Chúa mà cha cảm nhận. Chính Chúa đã gìn giữ cha, đã dìu dắt cha suốt 58 năm trong sứ vụ tông đồ. Và cha kêu gọi chúng con cùng cảm tạ Chúa với cha.

Còn biết bao nhiêu kỷ niệm mà cha đã để lại nơi tâm hồn của mỗi chúng con. Chúng con nhớ từng nụ cười, nhớ từng lời nói, nhớ từng bước đi của cha. Chúng con, những chủng sinh ngày ấy, không quên những tiếng ho nặng nhọc của cha mỗi buổi sáng trên dãy hành lang vào nhà nguyện... Dù sức khỏe đã quá mỏi mòn, vậy mà ngày nào cha cũng dâng thánh lễ với chúng con. Sự hiện diện của cha trong nhà nguyện nhắc nhở chúng con về bổn phận đạo đức, về đời sống cầu nguyện mà mỗi chủng sinh và cả linh mục nữa, phải thủ đắc làm hành trang cho đời tu của mình.

Chúng con vẫn biết cuộc ly biệt nào cũng để lại nơi lòng người ở lại những trống vắng và niềm tiếc thương. Sự ra đi của cha ngày ấy, đã làm rất nhiều trái tim rung cảm. Chúng con còn nhớ, trong lễ tang của cha, rất nhiều người đã xúc động và rơi lệ. Nhưng dẫu tiếc thương, người đời chỉ còn biết buông lời cảm thán: thế là hết! Nhưng chúng con cảm nhận rõ ràng chưa hết. Dù đã mười năm, sự hiện diện sinh động của cha như còn phảng phất đâu đây, trong tâm hồn của mỗi chúng con, những chủng sinh ngày ấy... Chúng con xin mượn cách nói của cha mà nói rằng, cha yêu nhất Chủng viện... Hình bóng của cha không phai mờ trong chúng con, bởi cha đã yêu chúng con trước, cha yêu nhất kia mà...

Thực tế có đau lòng, nhưng trong niềm tin vững chắc vào sự sống đời sau, chúng con cảm nhận một niềm an ủi lớn lao: giờ đây cha đang yểm trợ Giáo Hội, đang bảo vệ đoàn chiên và đang cầu bàu cho chúng con. Chúa đã sai cha ra đi, và Chúa đã gọi cha trở về. Cha đã trung thành với ơn gọi, "đã chạy hết chặng đường và đã giữ vững niềm tin" (2 Tm 4, 7).

Vâng, thưa cha, hạt lúa mì gieo vào lòng đất phải mục thối đi mới sinh nhiều hoa trái. Cha đã khuất. nhưng hoa trái của lòng tin do cha gieo vãi vẫn còn đó và lớn lên. Một lần nữa, nhân kỷ niệm mười năm cha xa cách chúng con, chúng con cúi mình kính chào cha. Mãi mãi chúng con thương nhớ cha, thương nhớ một người cha khả ái, vô cùng khả kính của chúng con. Xin tạm biệt cha. Hẹn gặp cha trên quê trời. Cha nhớ cầu nguyện cho chúng con với.


Hay Là Sự Bỏ Mình

Sau năm 1975, cũng như các chủng viện, các dòng tu tại Việt Nam, chủng viện thánh Giuse Sài Gòn cũng bị ngừng hoạt động. Rồi đến khi chủng viện thánh Giuse Sài Gòn được hoạt động trở lại, chúng tôi, lúc ấy là chủng sinh của một trong ba niên khóa đầu tiên của Chủng viện, được may mắn sống gần cận Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình, Tổng Giám mục Sài Gòn trong nhiều năm, mãi cho đến ngày Đức Tổng về cùng Chúa (1.7.1995).

Chúng tôi còn nhớ rõ, kể từ mùa hè 1992, sức khỏe của Đức Tổng vốn đã yếu, đột nhiên suy yếu nhiều. Ở tuổi 82, không còn đủ sức chống chọi với bệnh tật, Đức Tổng đã nhiều lần vào ra bệnh viện. Ngoài nhà nghỉ tĩnh dưỡng Bãi Dâu, Vũng Tàu, có thể coi bệnh viện Thống Nhất là ngôi nhà tĩnh dưỡng thứ hai của Đức Tổng.

Khoảng giữa tháng 8.1993, trong khi tất cả các chủng sinh còn đang nghỉ hè, thì chuyện bất ngờ xảy đến: Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình lâm trọng bệnh. Đức Tổng bị nhũn não, phải nằm liệt giường hơn một tháng tại bệnh viện Thống Nhất. Sau khi từ bệnh viện trở về Tòa Giám mục, tuy sức khỏe có hồi phục phần nào, nhưng Đức Tổng không thể làm việc được nữa. Kể từ đó, Tòa Thánh bổ nhiệm Đức Cha Nicôla Huỳnh Văn Nghi, Giám mục Phan Thiết làm Giám quản Tông tòa Tổng giáo phận Sài Gòn. Đối với Đức Tổng, tuy chức vụ vẫn là Tổng Giám mục chánh tòa của Giáo Phận, nghĩa là tòa đầy (sede plena), nhưng đây cũng chính là thời gian Đức Tổng hưu dưỡng. Gần hai năm cuối đời, Đức Tổng chọn chủng viện làm nơi nghỉ ngơi. Đức Tổng đã vào ở hẳn trong chủng viện. Đức Tổng bắt đầu một cuộc tĩnh tâm dài chuẩn bị cho ngày kết thúc hiến lễ đời mình…

Từ sau ngày Đức Tổng sống bên cạnh chúng tôi trong chủng viện, Đức Tổng đã để lại cho riêng tôi nhiều bài học quý giá cho đời tu của tôi. Những bài học này đã theo tôi từ khi còn là đại chủng sinh mãi đến bây giờ. Chắc chắn nó sẽ còn đi theo suốt cuộc đời linh mục của tôi. Bài học mà tôi thấm thía nhất, đó là sự chấp nhận bỏ mình của Đức Tổng.

Khuôn viên đại chủng viện thánh Giuse Sài Gòn ngày ấy thoáng mát, trong lành, có nhiều cây xanh, có những làn gió từ hướng sông Sài Gòn thổi tới. Nhất là vào mùa hè trời nóng bức, khuôn viên đại chủng viện cũng đỡ oi nồng.

Tuy dễ chịu là thế, nhưng để an toàn hơn cho sức khỏe của Đức Tổng, chủng viện lắp đặt một máy điều hòa nhiệt độ trong phòng ngủ của Đức Tồng…

Hôm ấy, vẫn như thường lệ, tiếng máy vẫn chạy rì rì, trời bỗng chuyển mưa, gió thổi mạnh. Không khí trong phòng trở nên man mát, lành lạnh. Sợ Đức Tổng bị cảm, chúng tôi định tắt máy lạnh. Để chắc ăn, dì Luca (dì phước được giao nhiệm vụ chăm sóc Đức Tổng) thưa với Đức Tổng: “Con tắt máy lạnh nghe Đức Cha?”. Đức Tổng hiền từ trả lời: “Ừ, tắt đi, lạnh rồi!”. Thế là chúng tôi tắt máy.

Rất lâu sau, trời vẫn chuyển và gió nhưng không mưa. Tôi lại gần thăm chừng Đức Tổng. Nhìn thấy những giọt mồ hôi lăn tăn trên trán Đức Tổng, tôi hốt hoảng. Vội đưa tay sờ vào áo Đức Tổng, tôi giật mình nhận ra, toàn lưng Đức Tổng mồ hôi thấm ướt áo. Tôi vội thưa: “Thưa Đức Tổng, Đức Tổng mồ hôi nhiều lắm. Chắc Đức Tổng khó chịu, con mở máy lạnh nghe?”. Đức Tổng nhìn tôi bằng một nụ cười hiền từ và bảo: “Ừ, con mở máy đi, nực rồi!”.

Tôi mở máy lạnh theo lời Đức Tổng mà lòng cứ dâng lên một niềm cảm mến và kính phục: Hình như Đức Tổng không những không muốn sống cho riêng mình, chỉ muốn sống vì người khác, mà còn là một sự bỏ mình!

Nhưng đâu chỉ là sự bỏ mình “cục bộ”. Càng suy nghĩ về nội tâm bình an đúng như tên gọi, về lối sống gần như chấp nhận dễ dàng hết mọi người, hết mọi hoàn cảnh (đến nỗi có người hằn học cho rằng Đức Tổng ba phải, nhu nhược…) của Đức Tổng, tôi càng nhận ra, sự bỏ mình ấy đã đi theo Đức Tổng từ lâu rồi. Nó dường như không còn chỉ là thói quen, nhưng đã thấm vào từng giọt máu, từng thớ thịt của Đức Tổng. Nói mạnh hơn, sự bỏ mình ấy đã từ lâu trở thành một phần sự sống của Đức Tổng.

Những năm tháng dài làm giám mục của một giáo phận không chỉ lớn, mà còn là một giáo phận giữa lòng một thành phố năng động, thành phố của sự hội nhập và phát triển mau chóng, một thành phố mà trong đó không ít phức tạp, nhất là những năm tháng phải sống cùng mọi thử thách của giáo phận, Đức Tổng đã hy sinh nhiều, đã chấp nhận nhiều. Chắc chắn, Đức Tổng cũng phải trút bỏ chính mình nhiều. Sự chấp nhận và chịu đựng lớn nhất có lẽ là chấp nhận và chịu đựng bị hiểu lầm nhằm giữ vững con thuyền giáo phận trong dòng chảy của đức tin, giữ vững việc sống và cao rao Lời Chúa giữa vô vàn khó khăn vây bũa. Sự trút bỏ chính mình giữa một hoàn cảnh đầy những bóng đêm, đã tạo nên nơi Đức Tổng nghị lực lớn, không chỉ cho Đức Tổng mà còn cho giáo phận đứng vững và vượt qua…

Có nghe Đức Tổng nói về sự mất mát, nào là nhân sự, đất đai, các cơ sở, rồi hoạt động tôn giáo, cũng như rất nhiều hoạt động khác… của Hội Thánh tại miền Nam cũng bị mất mát sau biến cố 30.4, ta mới hiểu hết thế nào là sự chấp nhận trút bỏ của con người Đức Tổng để có được bình an nội tâm, có được sự hòa dịu hết sức có thể cho hoàn cảnh sống của tôn giáo mình nói chung, của giáo phận mình nói riêng: “Chúa lấy bằng tay này, nhưng Chúa lại cho bằng tay khác. Chúa lấy người, lấy của, Chúa hạn chế những hoạt động của chúng ta, nhưng Chúa cho chúng ta một Giáo Hội nghèo khó, thanh sạch hơn, khiêm tốn hơn”.

Hoặc nếu có lần nào, ta nghe một người thân thuộc nào đó kể về Đức Tổng, ta càng thấy rõ hơn khuôn mặt của con người sống một đời đầy sự trút bỏ này. Chẳng hạn, linh mục nhạc sĩ Kim Long có lần kể rằng, khoảng năm 1993, sau một lần cha phải giải phẫu khối u trong ruột, lúc đó cũng là lúc Đức Tổng đã rất yếu, phải đi tĩnh dưỡng một thời gian khá dài. Nhưng sau khi về lại Sài Gòn, nghe tin linh mục Kim Long đang dưỡng bệnh tại gia đình ở Tân Bình, Đức Tổng đã đến thăm. Linh mục Kim Long nói: “Hôm ấy, tôi thấy một xe hơi đậu trước nhà. Ngay lúc ấy, một cụ già đang lần bước men theo xe, bước chậm chạp. Tôi vội chạy ra. Tôi nhận ra Đức Tổng. Đức Tổng nói: ‘Tôi đi nghỉ ở Long Hải về, nghe tin cha bệnh, tôi thương quá. Tôi đang mệt lắm, nhưng tôi nghĩ phải đến thăm cha một chút vì tôi còn có thể đi được’”. Vì tuổi cao, sức yếu, lại đang bệnh tật, nếu Đức Tổng không đến thăm cha Kim Long, chắc cũng không ai dám trách. Nhưng nghĩ đến người anh em linh mục của mình, dù người anh em đó không thuộc giáo phận mình đang coi sóc, Đức Tổng đã bất chấp sự mệt nhọc của bản thân để thăm cha Kim Long cho bằng được.

Một sự bỏ mình lớn như thế, triền miên như thế, thì bây giờ, một chút hy sinh nóng hay lạnh, đối với Đức Tổng có đáng là gì. Bởi đã một đời chấp nhận, thì sự chấp nhận ấy đã trở thành chính lẽ sống của Đức Tổng mất rồi!

Vì thế, nhớ về Đức Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình, tôi thấy Đức Tổng chính là bài học dạy tôi, sống với mọi người, không chỉ là chiều ý người khác, tìm làm đẹp lòng người khác, mà còn là sự bỏ mình để nên hữu ích cho danh Chúa và cho mọi người. Nhớ về Đức Tổng, tôi học bài học bỏ mình, để thêm sức mạnh, thêm can đảm giúp mình trưởng thành hơn, biết đương đầu để vượt qua khó khăn hơn…

***



(Trong bài có sử dụng “Chứng từ yêu thương” của Đại chủng viện thánh Giuse Sài Gòn, nhân kỷ niệm giỗ một năm Đức Cố Tổng Giám mục Phaolô Nguyễn Văn Bình).

A.T