Vấn đề đào tạo giáo dân của Giáo hội ngày nay (1)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 3626 | Cật nhập lần cuối: 12/11/2014 7:56:07 PM | RSS

BBT xin giới thiệu loạt bài về đào tạo Giáo dân do thầy Giêrônimô Nguyễn Văn Nội, Giảng viên Học viện mục vụ, nhằm phục vụ cho việc Phúc âm hóa cộng đoàn Giáo xứ.

I. GIÁO HUẤN CỦA CÔNG ĐỒNG VATICAN II VỀ VIỆC ĐÀO TẠO GIÁO DÂN

Công đồng Vatican II (1962-1965) không chỉ đề cao vai trò, sứ mạng, ơn gọi của giáo dân, mà còn đưa ra một chỉ dẫn mà Giáo hội phải theo, một định mức mà Giáo hội cần đạt tới. Đó là:

“Giáo hội chưa được thiết lập thực sự, chưa sống đầy đủ, cũng chưa là dấu chỉ tuyệt hảo của Chúa Kitô giữa loài người nếu như chưa có hàng giáo dân đích thực và nếu hàng giáo dân này chưa cùng làm việc với Hàng Giáo Phẩm. Thật vậy, Phúc âm không thể đi sâu vào tinh thần, đời sống và sinh hoạt của một dân tộc nếu không có sự hiện diện linh hoạt của giáo dân. Do đó, ngay khi thiết lập, Giáo hội phải hết sức chú tâm đến việc đào tạo một hàng ngũ giáo dân Kitô giáo trưởng thành” (Sắc lệnh Truyền Giáo, số 21).

Khi đề cập đến nhu cầu đào tạo giáo dân, linh mục Jess S. Brena SJ, đã viết những dòng sau đây:

“Thật dễ nhận ra rằng đại đa số các Kitô hữu chúng ta đã không được huấn luyện để đảm nhận tích cực phận vụ của mình trong Giáo hội hoặc trong công tác tông đồ. Ai cũng thấy nhu cầu phải được huấn luyện thích đáng là điều quá rõ ràng và cần thiết.

Giáo dân có quyền được huấn luyện như thế để có năng lực nhiều hơn mà đóng vai trò Thiên Chúa đã ủy thác cho mình".

“Về điểm này, Công đồng Vatican II và Bộ Giáo luật mới 1983 đã tuyên bố rất rõ: “Do vậy, ngay cả khi phải bận rộn với những lo toan trần thế, người giáo dân cũng có thể và phải thể hiện những nỗ lực xứng đáng để đưa Tin mừng vào trần gian. Đặc biệt, một số người trong họ sẽ vận dụng hết khả năng mình để đảm nhận các phận vụ thiêng liêng trong trường hợp thiếu linh mục hoặc linh mục bị cấm cách. Nhiều giáo dân sẽ dấn thân hoàn toàn cho công tác tông đồ. Nhưng công tác để mở rộng và phát triển sức mạnh của Nước Chúa Ki-tô trên trần gian là bổn phận của hết thảy mọi người. Vì vậy, người giáo dân phải rèn luyện để nắm vững hơn về chân lý mạc khải và phải nhiệt thành cầu xin Chúa ban cho mình ơn khôn ngoan” (Hiến chế tín lý về Giáo hội, số 35).

“Phải coi sự huấn luyện này là nền tảng và là điều kiện cần thiết cho mọi hoạt động tông đồ hữu hiệu.

“Bởi vì sự huấn luyện trong lãnh vực tông đồ không chỉ bao gồm những chỉ dẫn thuần lý thuyết, nên ngay từ đầu cuộc huấn luyện phải dần dần và khéo léo giúp cho người giáo dân biết xem xét và làm mọi sự trong ánh sáng đức tin – cũng như biết hành động để phát triển và hoàn thiện bản thân mình và người khác; nhờ đó họ hòa nhập vào công cuộc phục vụ đầy năng động của Giáo hội” (Sắc lệnh Tông đồ Giáo dân, số 29).

(NGÀI GỌI CON, CON ĐÂY, Thủ Bản huấn luyện Tông Đồ Giáo Dân, trang 145-148, Nhà xuất bản: Trung Tâm Đào Tạo và Thăng Tiến Đài Bắc - Đài Loan, 1984).

II. MỤC ĐÍCH CỦA VIỆC ĐÀO TẠO GIÁO DÂN

Tông huấn Người Kitô hữu giáo dân (Christi fideles Laici) của thánh giáo hoàng Gioan Phaolô II, nói rất rõ về ba mục đích của việc huấn luyện giáo dân là:

(a) Giúp giáo dân trưởng thành và nên giống Chúa Kitô hơn:

“Các Nghị phụ… diễn tả việc huấn luyện giáo dân như một tiến trình trưởng thành liên tục của cá nhân trong đức tin và là một tiến trình nên giống Đức Ki-tô, theo ý muốn của Chúa Cha, dưới sự hướng dẫn của Chúa Thánh Thần” (số 57).

(b) Giúp giáo dân khám phá và sống ơn gọi riêng của mình:

“Việc huấn luyện giáo dân có nục tiêu nền tảng là giúp hô khám phá ra mỗi ngày một rõ ràng hơn ơn gọi cá nhân và luôn hết sức sẵn sàngchu toàn sứ vụ riêng của mình” (số 58).

(c) Giúp giáo dân có một đời sống thống nhất:

“Trong cuộc sống không thể có hai đời sống song song nhau: một bên là đời sống gọi là ‘thiêng liêng’, với những giá trị và những đòi hỏi riêng, và bên kia là đời sống ‘trần thế’, nghĩa là đời sống gia đình, nghề nghiệp, những tương quan xã hội, sự tham gia chính trị, các hoạt động văn hóa. Cành nho nào được nối với cây nho là Đức Ki-tô sẽ trổ sinh hoa trái trong tất cả mọi lãnh vực hoạt động và trong mỗi giai đoạn của cuộc sống. Thật vậy, tất cả mọi lãnh vực của đời sống giáo dân đều nằm trong ý định của Thiên Chúa, Đấng đã muốn những lãnh vực đó là “môi trường lịch sử” để mặc khải và thực thi Đức Ai của Đức Giêsu Kitô, nhằm vinh quang Chúa Cha để phục vụ anh em. Tất cả mọi hoạt động, mọi hoàn cảnh, mọi sự dấn thân cụ thể – chẳng hạn như khả năng chuyên môn và sự liên đới trong công việc, tình yêu và sự dâng hiến trong gia đình cũng như trong việc giáo dục con cái, công việc xã hội và chính trị, việc trình bày chân lý trong lãnh vực văn hóa - tất cả những điều đó là cơ hội được Thiên Chúa quan phòng để ‘không ngừng thực thi đức Tin, đức Cậy và đức Mến” (Người Kitô hữu giáo dân, số 59; Hiến chế mục vụ về Giáo hội trong thế giới ngày nay, số 43; Sắc lệnh Truyền giáo, số 21; Tông huấn Loan báo Tin Mừng, số 20).

III. HAI LÃNH VỰC & CHƯƠNG TRÌNH ĐÀO TẠO GIÁO DÂN

Cũng theo Tông huấn Người Ki-tô hữu giáo dân thì người giáo dân cần được đào tạo trong hai lãnh vực khác nhau: lãnh vực tổng quát và lãnh vực chuyên biệt. Vì có hai lãnh vực nên cũng cần phải có hai chương trình đào tạo khác nhau.

3.1 Lãnh vực & chương trình tổng quát:

Mọi người giáo dân phải được đào tạo trong lãnh vực và theo chương trình tổng quát này. Ở đây người giáo dân được đào tạo về những nền tảng cơ bản của đời sống Đức Tin, gồm nhiều mặt: nhân bản, tâm linh, kiến thức, ý thức thái độ và kỹ năng.

3.2 Lãnh vực & chương trình chuyên biệt:

Đối với một số giáo dân có Ơn gọi và Sứ mạng riêng như các Giáo lý viên, Linh hoạt viên các cộng đoàn, Hội viên Hội đoàn Công giáo Tiến hành, Thành viên Hội đồng Mục vụ Giáo xứ, các Tông đồ Giáo dân, những người làm việc từ thiện, những người dấn thân trong lãnh vực nghề nghiệp, chính trị… thì ngoài chương trình huấn luyện chung cho mọi giáo dân, họ cần có một chương trình đào tạo riêng. Gọi chương trình ấy gọi là chương trình huấn luyện chuyên biệt, vì nhằm đáp ứng các nhu cầu, ơn gọi và sứ vụ riêng biệt của từng hạng người: Ví dụ các Giáo lý viên thì phải có sự hiểu biết và kỹ năng về Sư phạm Giáo lý; Hội đồng Mục vụ Giáo xứ thì phải có hiểu biết và kỹ năng về lãnh đạo tập thể; Tông đồ Giáo dân thì phải có hiểu biết về giá trị các tôn giáo không Ki-tô giáo và phải có nghệ thuật tâm lý trong giao tiếp v.v…

Ngày nay, Giáo hội hiểu rằng việc đào tạo người giáo dân đích thực và trưởng thành mà các Nghị Phụ Công đồng mong muốn, bao hàm cả 5 mặt sau đây: (1) Nhân bản (2) Đời sống thiêng liêng hay tâm linh (3) Ý thức và Thái độ (4) Kỹ năng (5) và Kiến thức.

(1) Về mặt nhân bản, giáo dân được đào tạo để:

a) Trở thành một con người hoàn thiện về mặt nhân bản, với những đức tính hướng thiện, công bằng, yêu thương, nhân ái, vị tha, thanh liêm chính trực, trọng chữ tín, trọng của công, có tinh thần trách nhiệm,

(b) Nhạy bén với các vấn đề xã hội, có tình liên đới với những người chung quanh.

(2) Về mặt thiêng liêng hay tâm linh, giáo dân được đào tạo để:

a) Trở thành một Ki-tô hữu xác tín và dấn thân.

b) Phát triển đời sống cầu nguyện và tình thân với Thiên Chúa.

c) Tinh luyện động cơ phục vụ và lãnh đạo.

d) Biết quy chiếu đời sống Đức Tin vào Đức Ki-tô và xây dựng đời sống ấy trên nền tảng Lời Chúa.

e) Biết hội nhập văn hóa và Đức Tin một cách hài hòa.

(3) Về mặt ý thức và thái độ, giáo dân được đào tạo để có:

a) Ý thức trách nhiệm xã hội.

b) Ý thức các mối tương quan cộng đoàn và dành ưu tiên cho việc xây dựng cộng đoàn, cho cách làm việc chung, làm việc êkíp, nhóm.

c) Thái độ khiêm tốn phục vụ, chia sẻ, giúp đỡ người khác.

(4) Về mặt kỹ năng, giáo dân được đào tạo để:

a) Biết linh hoạt một Nhóm nhỏ hay một cộng đoàn lớn.

b) Biết mời gọi, thuyết phục và ảnh hưởng trên người khác.

c) Tinh luyện động cơ phục vụ và lãnh đạo.

d) Biết hướng dẫn các buổi cử hành, nghi thức, cầu nguyện.

đ) Biết điều hành các buổi hội họp thảo luận hay chia sẻ.

e) Biết cách giải quyết các xung đột, bất đồng.

g) Biết cách truyền thông cho người khác.

h) Biết lên kế hoạch mục vụ, thực hiện và đánh giá việc thực hiện (evaluation) kế hoạch ấy.

(5) Về mặt kiến thức, giáo dân được đào tạo để:

a) Có một hiểu biết thông thạo về giáo lý, Thánh Kinh, thần học.

b) Có một kiến thức tổng quát về các vấn đề kinh tế, xã hội, chính trị, văn hóa, tôn giáo, môi sinh và các phương tiện thông tin đại chúng.

(còn tiếp)

Giêrônimô Nguyễn Văn Nội

---------------

(Ghi chú: CÙNG làm việc VỚI hàng Giáo phẩm).