Thánh Mẫu học trong Giáo Hội từ Vatican II đến nay (2)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 4005 | Cập nhật lần cuối: 1/15/2015 9:12:40 AM | RSS

(tiếp theo)

2.4 Các tín điều

Như vừa nói, các bản văn Tân ước không chủ ý kể lại tiểu sử của Chúa Giêsu (và của Đức Maria). Đúng hơn, đó là chứng tích của niềm tin của Hội thánh nguyên thuỷ. Hiểu như vậy, phải nhìn nhận rằng những đạo lý cốt lõi của Kitô giáo liên quan đến Đức Maria đã được hàm chứa trong Kinh thánh rồi.

Theo gương Đức Maria đã nghiền ngẫm Lời Chúa để hiểu biết kế hoạch của Thiên Chúa, Hội thánh trải qua dòng thời gian cũng đào sâu kho tàng mạc khải để hiểu rõ hơn mạc khải của Thiên Chúa, cách riêng để đáp ứng những thách đố đức tin của mỗi thời đại. Đó là ý nghĩa của những “tín điều” mà Hội thánh tuyên xưng, như công đồng Vaticanô II giải thích trong hiến chế Dei verbum (về mạc khải) số 8. Khi giải thích các tín điều, cần phân biệt hai khía cạnh: a) nội dung của tín điều thì không thể thay đổi bởi vì gắn liền với mạc khải của Thiên Chúa; b) hình thức phát biểu thì lệ thuộc vào hoàn cảnh lịch sử. Vì thế tuy vẫn nắm chắc nội dung tín điều, nhưng thần học cố gắng tìm những cách thức diễn đạt đáp ứng với những đòi hỏi của mỗi thời đại. Đó cũng là điều xảy ra vào những năm sau công đồng.

2.4.1 Các tín điều về Đức Maria

Trải qua hai mươi thế kỷ, Giáo hội đã công bố bốn tín điều về Đức Maria: Mẹ Thiên Chúa, trinh khiết, vô nhiễm nguyên tội, hồn xác lên trời.

- Bốn tín điều này có thể phân ra làm hai nhóm: a) hai tín điều “Mẹ Thiên Chúa” và “Trinh khiết” gắn liền với mầu nhiệm Đức Kitô, và đã có lịch sử lâu đời; b) hai tín điều “Vô nhiễm nguyên tội” và “Hồn xác lên trời” liên quan đến bản thân của Đức Maria, và mới được tuyên bố gần đây (thế kỷ XIX và XX).

- Nhìn lại lịch sử thành hình bốn tín điều, chúng ta có thể thêm một nhận xét khác. Hai tín điều đầu tiên đã được tuyên xưng bởi Hội thánh bất phân ly, nghĩa là trước khi có những chia rẽ giữa Đông và Tây, giữa Công giáo và Tin Lành. Ngoài ra, hai tín điều đầu tiên đặt trọng tâm nơi công trình cứu chuộc. Hai tín điều cận đại được công bố bởi các Giáo hoàng, thủ lãnh của Giáo hội công giáo, mà thẩm quyền không được Giáo hội Chính thống và các Giáo hội Cải cách nhìn nhận.

- Dựa trên sự liên hệ với Lời Chúa, cha René Laurentin còn đưa ra một lối phân chia khác, thành ba cấp[9]: a) những tín điều “Kinh thánh”, nghĩa là dựa trên bản văn Kinh thánh (hai tín điều đầu tiên); b) những tín điều “gần đây” được đức giáo hoàng công bố sau nhiều cuộc tranh luận thần học lâu dài (hai tín điều “vô nhiễm nguyên tội” và “hồn xác lên trời”); c) những đạo lý chưa được định tín chính thức, nhưng đã được huấn quyền thông thường và phổ quát đề nghị (sự môi giới thiêng liêng của người mẹ; sự hợp lệ của việc tôn kính Đức Mẹ trong phụng vụ và kinh nguyện).

2.4.2 Đọc lại các tín điều dưới viễn ảnh mới

Các tín điều đã ra đời vào những hoàn cảnh xã hội và lịch sử khác nhau. Tuy nhiên, các đức giáo hoàng Phaolô VI và Gioan Phaolô II đã đọc lại các tín điều ấy một cách xuyên suốt nhờ lối tiếp cận thần học của hiến chế Lumen gentium: đặt trong viễn ảnh của mầu nhiệm đức Kitô và Hội thánh, vừa nêu bật tính cách ân điển của Thiên Chúa, vừa đề cao vai trò đáp trả về phía con người.

a) Chức Thiên mẫu là một đặc ân của Thiên Chúa, nhưng đã đòi hỏi người hiền mẫu và tôi tớ dấn thân vào công trình cứu độ của Đức Kitô để hình thành cộng đồng những kẻ được Chúa cứu chuộc. Đức Maria đã sống thiên chức làm mẹ Đấng Cứu thế với lòng tin-cậy-mến, cùng với tinh thần phục vụ. Đức Maria trở thành mẫu gương của Hội thánh trong công tác tông đồ, nghĩa là sứ vụ làm mẹ sinh ra những con cái mới cho Nước Thiên Chúa.

Công đồng Êphêsô gắn liền tín điều Thiên mẫu gắn liền với việc tuyên xưng mầu nhiệm Ngôi Lời nhập thể; nhưng ngày nay, chúng ta cũng có thêm rằng tín điều này cũng tuyên dương phẩm giá của con người được tái sinh nhờ tình yêu của Chúa Cứu thế.

b) Sự trinh khiết trọn đời của Đức Maria không chỉ nói lên sự kiện Người tận hiến toàn thân để phục vụ Đấng Emmanuel, nhưng cũng là sự tuyên xưng thiên tính của Đức Giêsu. Thật vậy, những trào lưu cận đại phủ nhận đức trinh khiết của Đức Maria thường cũng chỉ nhìn đức Giêsu như một con người bình thường. Hiến chế Lumen gentium muốn cho tín điều này trở nên khuôn mẫu cho Hội thánh biết giữ vững đức tin nguyên tuyền, giống mối tình chung thuỷ của hiền thê đối với Hôn phu độc nhất là Đức Giêsu. Đức Gioan Phaolô II còn muốn mở rộng những suy tư đến toàn thể lịch sử cứu độ[10]: sự “trinh khiết phong nhiêu” của Đức Maria đã được tiên báo ngay từ những trang đầu của Kinh thánh (“đất còn trinh”, St 2,4b-7); được chuẩn bị nơi những phụ nữ son sẻ trở thành mẹ; được diễn tả nơi thập giá (“Đức Kitô trinh khiết đã ký thác môn đệ trinh khiết cho người mẹ trinh khiết”, theo kiểu diễn tả của các giáo phụ); và mang theo nhiều giá trị Tin mừng cho thời đại hôm nay (tự do nội tâm, tôn trọng tha nhân, quan tâm đến các giá trị thiêng liêng, chiều kích cánh chung, tình yêu và tôn trọng thiên nhiên).

c) Tín điều vô nhiễm nguyên tội được Giáo hội tuyên xưng sau nhiều thế kỷ tranh luận, muốn nói lên rằng: ơn cứu chuộc phổ quát của Đức Kitô vượt lên biên cương của thời gian; đức Maria cũng cần được cứu chuộc, đồng thời Người đã được Thiên Chúa trang điểm với vẻ đẹp thánh thiện độc nhất vô nhị. Tín điều này nói lên khả năng lựa chọn tự do của con người. Cần phân biệt hai điều: khả năng phạm tội và thực sự phạm tội. Đức Maria chia sẻ thân phận chung của loài người, nghĩa là có thể phạm tội; nhưng Người đã không phạm tội, bởi vì ý muốn của Người hoàn toàn hòa đồng theo ý Chúa. Đức Maria chứng tỏ tình trạng “có thể không phạm tội” (khác với điều kiện “không có thể phạm tội”). Trên thực tế, đây là một ân huệ của Thiên Chúa, nhờ quyền năng của Đức Kitô Đấng đã chiến thắng tội lỗi: Thánh Thần đã ban cho Người được thông dự vào sự chiến thắng ấy. Hội thánh ca ngợi công trình Chúa Ba ngôi nơi ân huệ này: tình yêu của Chúa Cha, ơn cứu chuộc của Đức Kitô, ân huệ bao phủ của Thánh Thần. Tín điều này trở thành nguồn tin tưởng và hy vọng cho Dân Chúa. Đức Maria “không mắc tội tổ tông truyền” có nghĩa là Người không chịu ảnh hưởng tiêu cực của dòng dõi nhân loại; ngược lại, Người khai mở một tình liên đới mới, với một dòng dõi mới của những kẻ được tái sinh làm con Thiên Chúa. Người trở nên khuôn mẫu cho Hội thánh, hiền thê không tì ố của Đức Kitô, sống giữa thế gian tội lỗi nhưng không vướng mắc tội lỗi, nhờ ân sủng của Chúa.

d) Tín điều “Đức Maria được đưa lên trời” muốn nói rằng Người đã chia sẻ cái chết “trong Đức Kitô” cho nên cũng được thông dự vào sự phục sinh của Chúa. Người trở nên dấu chỉ hy vọng cho các phần tử Hội thánh cũng sẽ được chia sẻ ơn cứu độ toàn diện do Chúa ban.

Trong việc diễn tả niềm tin này, Giáo hội sử dụng những ngôn ngữ lấy từ những khuôn mẫu mà Kinh thánh dành cho sự kết liễu cuộc đời của người công chính:

- “âm ti” (sheol), cõi thinh lặng dưới lòng đất dành cho những người chết (x. Tv 6,5; 88,10; Lc 16,19-21).

- “cất về trời” hoặc “đưa lên trời” mà không phải trải qua cái chết, giống như ông Enoch và ông Êlia (x. St 5,24; 2V 2,1-11), và những người được Chúa cứu độ (1Tx 4,17).

- “nâng lên, nhấc lên”: các tôi tớ trung tín được Thiên Chúa đưa vào cõi sống bất tử (x. Đn 7,27; Pl 2,9).

Dù sao, Đức Maria được đưa lên trời để trở thành kẻ chuyển cầu cho các phần tử của nhân loại, cũng giống như Chúa Kitô vào thánh điện trên trời như Thượng tế để chuyển cầu cho chúng ta (x. Dt 7,25). Tín điều này cũng ảnh hưởng đến niềm tin của Hội thánh về điều kiện tương lai của nhân loại. Thật vật, thân xác của Đức Maria hiện nay là một “thân thể sinh khí” (soma pneumatikon: x. 1Cr 15,44; Pl 3,21), được ở kề bên Thiên Chúa, trong tình trạng hiển vinh, là hình ảnh của điều kiện cánh chung của nhân loại.

2.4.3 Cuộc đối thoại đại kết

Các tín điều phát biểu niềm tin của Hội thánh vào chân lý mạc khải. Hội thánh không “sáng tác” các tín điều, nhưng đón nhận từ Thiên Chúa. Điều này có nghĩa là các tín điều ràng buộc tất cả mọi Kitô hữu chứ không chỉ riêng gì các phần tử thuộc Giáo hội công giáo.

Tiếc rằng thực tế không xảy ra như vậy. Có thể nói được là hai tín điều cổ điển (Thiên mẫu, trinh khiết trọn đời) được tất cả các Giáo hội tuyên xưng, nhưng hai tín điều “mới” thì gặp nhiều ngăn trở vì những lý do khác nhau.

a) Các Giáo hội Chính thống không chấp nhận hai tín điều này bởi vì họ không chấp nhận tín điều bất khả ngộ của giáo hoàng. Theo truyền thống các giáo hội Đông phương, duy chỉ công đồng phổ quát mới có thẩm quyền tuyên bố tín điều. Thực ra, xét về nội dung, các giáo hội Chính thống vẫn tin rằng Đức Maria là Đấng Toàn thánh, và lễ Đức Mẹ an giấc (15 tháng 8) được cử hành long trọng từ thế kỷ V[11].

b) Chúng tôi đã nói sơ qua những vấn nạn của phái Cải Cách liên quan đến đức Maria. Họ muốn nhấn mạnh đến sáng khởi của Thiên Chúa trong chương trình cứu độ: ân sủng mang tính ban không, loại trừ sự hợp tác của con người. Ngoài ra, vào thế kỷ XVI, phong trào tôn kính Đức Mẹ có những lệch lạc, gây cảm tưởng Người là một nữ thần.

Những cuộc đối thoại đại kết trong thế kỷ XX đã giải toả được nhiều hiểu lầm giữa đôi bên. Từ sau công đồng, nhiều văn kiện đối thoại đại kết giữa Giáo hội Công giáo và phái Cải Cách (ở cấp địa phương) đã được phát hành: Groupe des Dombes, Marie dans le dessein de Dieu et la communion des saints. Controverse et conversion, Paris 1998. U.S. Lutheran - Roman Catholic dialogue VIII, The One Mediator, the Saints, and Mary (1992). Anglican - Roman Catholic International Commission (ARCIC),Mary: Grace and Hope in Christ (Seattle, May 16, 2005)[12]. Thiết tưởng không nên bỏ qua sự đóng góp quan trọng của nhà thần học Max Thurian (Marie, mère du Seigneur, figure de l’Eglise,1961), một thành viên tu viện Taizé được mời làm quan sát viên tại công đồng, và sau đó trở thành linh mục công giáo.

Thánh Mẫu học trong Giáo Hội từ Vatican II đến nay (2)

2.5 Những đường hướng tiếp cận hiện đại

Khi nói đến TMH, chúng ta giới hạn vào việc nghiên cứu thần học, dùng lý trí để tìm hiểu đức tin. Đó là lối tiếp cận của “lý trí” để tìm kiếm “chân lý”. Tuy nhiên, đó không phải là lối tiếp cận duy nhất. Thời Trung cổ, thánh Tôma sử dụng “ngũ đạo” để minh chứng sự hịên hữu của Thiên Chúa. Thời nay, cha Stefano de Fiores cũng kể ra “năm con đường” tìm hiểu đức Maria[13]:

a) Đường Kinh thánh (via biblica, hoặc: lịch sử cứu độ): trình bày thân mẫu Đức Giêsu theo mạc khải của Thiên Chúa qua các tác phẩm Tân ước;

b) Đường tỏ hiện (via epifanica): qua những lần Đức Mẹ hiện ra cho những người được uỷ thác một sứ mạng đặc biệt (chẳng hạn như: Lourdes, Fatima) hoặc những người đã có một cảm nghiệm riêng tư (chẳng hạn như thánh Louis Marie Grignion de Montfort, thánh Maximiliano Kolbe).

c) Đường tâm linh (via della spiritualità): qua những kinh nguyện bộc phát từ lòng yêu mến, như ta đọc thấy nơi nhiều tác giả thời Trung cổ (chẳng hạn thánh Bênađô), hoặc nơi lòng đạo đức bình dân.

d) Đường chân lý (via della verità): qua đạo lý của Huấn quyền và suy tư thần học; đây là lối tiếp cận cổ truyền của thần học.

e) Đường thẩm mỹ (via pulchritudinis): qua việc chiêm ngắm những tác phẩm nghệ thuật (thi ca, âm nhạc, tranh họa) diễn tả Đấng Tuyệt Mỹ[14].

Và cũng như thần học nói chung, bên cạnh khuynh hướng “khẳng định” còn có khuynh hướng “phủ định”, đặc tính của các nhà thần bí. Sự thinh lặng cũng là một cách làm thần học (theologia = nói về Chúa, nói với Chúa).

2.6 Đức Maria trong Hội thánh ngày nay

Trong bài này, chúng tôi giới hạn vào việc tìm hiểu những đường hướng suy tư thần học về Đức Maria. Để kết luận, cần phải mở rộng đến sự hiện diện của Đức Thánh mẫu trong đời sống Hội thánh. Thật vậy, Người không chỉ là một “đối tượng nghiên cứu” nằm trong sách vở, nhưng Người hiện diện trong đời sống Hội thánh bằng nhiều cách. Đối lại, Hội thánh không chỉ nhìn Người như chân lý phải tin nhưng còn duy trì mối tình hiếu thảo qua nhiều phương thế.

Chúng ta có thể lấy một thí dụ từ sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, được ban hành ba mươi năm sau công đồng (1992). Sách Giáo lý không dành cho Đức Maria một chương biệt lập, nhưng nhắc đến Người trong tất cả bốn phần. Điều này muốn cho thấy rằng Đức Maria hiện diện trong toàn thể mầu nhiệm đức tin Kitô giáo: trong việc tuyên xưng đức tin (phần thứ nhất), cử hành mầu nhiệm (phần thứ hai), sống trong Đức Kitô (phần thứ ba), cầu nguyện (phần thư bốn). Nói khác đi, mầu nhiệm Kitô giáo mang một chiều kích Maria. Số 487 cung cấp cho ta một chìa khóa để đọc các đoạn văn viết về Mẹ Maria: “Điều mà đức tin công giáo tin về Đức Maria dựa trên điều mà Hội thánh tin về Chúa Kitô, đức tin công giáo tin về Đức Maria dựa trên điều mà Hội thánh tin về Chúa Kitô, điều mà Hội thánh dạy về đức Maria thì soi sáng đức tin vào Chúa Kitô”. Dĩ nhiên, tuy nhìn nhận sự liên hệ mật thiết giữa các tín điều về Chúa Giêsu và các tín điều về Đức Maria, nhưng chúng ta đừng nên bỏ qua nguyên tắc “hệ cấp các chân lý” (hierarchia veritatum) được công đồng Vaticanô II nói đến trong sắc lệnh về đại kết (số 11) và được sách Giáo lý trích lại ở số 90.

Đức Maria được nhắc đến nhiều hơn cả trong phần thứ nhất: Người đồng hành với Chúa Giêsu trong suốt cuộc đời từ khi Truyền tin cho tới thập giá, và đồng hành với Giáo hội (đặc biệt ở các số 963-972); mối tương quan giữa Đức Maria với Chúa Thánh Thần cũng được nhắc tới nhiều lần (số 484-486; 721-726). Phần thứ hai nhắc đến Đức Maria như là thành phần của Hội thánh ca ngợi Thiên Chúa (số 1138; 1187); đồng thời sách Giáo lý giải thích lý do vì sao Người được tôn kính cách đặc biệt (số 1161; 1172; 1192; 1195). Phần thứ ba trình bày Đức Maria như kẻ đã sống các chân phúc, cũng như là mẫu gương các nhân đức, đặc biệt là đức tin. Trong phần thứ bốn, ta thấy Đức Maria như là mẫu gương của một tín hữu cầu nguyện vì thế có thể dạy ta cầu nguyện; đặc biệt, sách Giáo lý giải thích ý nghĩa của các lời cầu hướng về Đức Maria ở số 2673-2678[15].

Cùng với sách Giáo lý Hội thánh Công giáo, thiết tưởng chúng ta không nên bỏ qua những văn kiện của Tòa thánh liên quan đến việc tôn kính Đức Maria[16], chẳng hạn như:

- Đức Phaolô VI, tông huấn Marialis cultus (2-2-1974), về sự chăm lo và phát triển việc tôn kính Đức Trinh nữ Maria cách đúng đắn.

- Bộ Phụng tự, Tuyển tập những bài lễ kính Đức Maria (Collectio missarum de Beata Maria Virgine: 15-8-1986);

- Đức Gioan Phaolô II, Tông thư Rosarium virginis Mariae (16-10-2002) về kinh Mân côi.

Kết luận

Trong bài này, chúng tôi chỉ muốn giới thiệu vài nét tiến triển của TMH trong những năm sau công đồng Vaticanô II. Chắc hẳn là còn rất nhiều thiếu sót, cách riêng bởi vì không nhắc đến đời sống đạo của Dân Chúa, một nhân tố ảnh hưởng rất nhiều đến việc tôn kính và suy tư. Chúng ta có thể lấy một tỉ dụ từ triều đại của thánh Gioan Phaolô II, vị “giáo hoàng của Đức Mẹ”. Việc nghiên cứu TMH của ngài không thể nào chỉ giới hạn vào các văn kiện (thông điệp, tông huấn, tông thư)[17], nhưng còn phải kèm theo các cuộc hành hương đến các thánh điện của Thánh mẫu, các hành vi “ký thác” Giáo hội cho Đức Mẹ, đặt trong bối cảnh của những phong trào giáo dân cổ động lòng sùng kính Người (đặc biệt gắn liền với những nơi Đức Mẹ hiện ra)[18].

Mặt khác, Đức Maria không phải là “độc hữu” của Kitô giáo. Người cũng được nhắc đến trong đạo Do thái và đặc biệt là trong sách Coran của Islam (70 lần). Không thiếu những tác phẩm đã được dành để nghiên cứu lãnh vực này. Ngoài ra, nếu TMMH không thể bỏ qua chiều kích nhân văn, thì cũng cần theo dõi những tiếng nói của các môn nhân văn học về Đức Maria. Thật vậy, từ trước công đồng, Karl Jung đã bàn đến Đức Maria như một biểu tượng trong tâm lý chiều sâu. Gần đây, bên cạnh những tranh luận của phong trào giải phóng phụ nữ chung quanh hình ảnh của Đức Maria, cần phải nhắc đến sự so sánh giữa việc tôn kính Đức Thánh Mẫu với những vị Nữ thần (Mẫu thần, đạo thờ Mẫu) trong văn hóa các dân tộc. TMH là một lãnh vực nghiên cứu còn rộng mở.

Salvatore M. Perrella, O.S.M.[1]

Lm. Giuse Phan Tấn Thành lược dịch

Nguồn: daminhvn.net

-------------------------------------------

Thánh Mẫu học trong Giáo Hội từ Vatican II đến nay (1)

Thư tịch

1. Lịch sử việc soạn bản văn chương VIII Hiến chế Lumen gentium

G. M. Besutti, Lo schema mariano al Concilio Vaticano II. Documentazione e note di cronaca. Marianum, Roma 1966.

R. Laurentin, La Vierge au Concile. Présentation, texte du chapitre VIII de la constitution dogmatique “Lumen gentium”. Lethielleux, Paris 1965.

S. M. Meo, Maria nel capitolo VIII della “Lumen gentium”. Elementi per un’analisi dottrinale. Marianum, Roma 1975.

E. M. Toniolo, Il capitolo VIII della “Lumen Gentiun”. Cronistoria e sinossi, in Marianum 66 (2004) pp. 9-425.

2. Thánh mẫu học sau công đồng Vatican II

AA. VV., Prospettive attuali di mariologia. Monfortane, Roma 2001.

A. Amato, Maria nell’insegnamento del magistero dal Concilio Vaticano II a oggi, in AA. VV., Fons Lucis. Miscellanea di studi in onore di Ermanno M. Toniolo. Marianum, Roma 2004, pp. 437-472.

S. De Fiores, Maria nella teologia contemporanea. Centro Cultura Mariana, Roma 1991 (3 ed).

S. M. Perrella, La Madre di Gesù nella coscienza ecclesiale contemporanea. Saggi di teologia. PAMI, Città del Vaticano 2005.

ID., Insegnamento della Mariologia e Magistero. L’indicazione dell’Esortazione

post sinodale “Verbum Domini” di Benedetto XVI, in «Marianum» 73 (2011), pp. 201-256.

ID., L’insegnamento della mariologia ieri e oggi Edizioni Messaggero, Padova 2012.

(*) Chú thích của người dịch. Những tài liệu trên đây được viết bằng tiếng Ý. Các độc giả tại Việt Nam có thể tìm thấy một nguồn quan trọng về THM ở trang web của Đại Học Dayton: “The Mary Page”: http://campus.udayton.edu/mary/index.html

[4] Thuật ngữ này xuất hiện tại Hội nghị TMH quốc tế tại Lourdes năm 1958.

[5] S. MEO, “Concilio Vaticano II”, in: Nuovo Dizionario di Mariologia, Paoline, Cinisello Balsamo 1986, p. 346.

[6] Như đã nói trên, khi họp công đồng, một số nghị phụ đã đề nghị tuyên bố tín điều “Đức Mẹ trung gian các ân sủng” (Mediatrix omnium gratiarum); nhưng một khuynh hướng đối lại yêu cầu đừng đả động đến điểm này vì không có chứng cớ Kinh thánh và gây khó khăn cho cuộc đối thoại đại kết. Đứng trước hai khuynh hướng đối lập, Công đồng (số 62) đã chọn lựa một giải pháp thỏa hiệp, đó là đặt tước hiệu “trung gian” trong số những tước hiệu mà các tín hữu quen kêu cầu Đức Maria (Trạng sư, Phù hộ, Trợ giúp, Trung gian), nhưng không đi sâu vào nội dung tín lý.

[7] Ngoài Hiến chế LG, công đồng còn nhắc đến Đức Maria trong nhiều văn kiện khác: Hiến chế về Phụng vụ số 110; Sắc lệnh về các Giáo hội Đông phương số 30; Sắc lệnh về Đại kết số 14, 15, 20; Sắc lệnh về Đời tu số 25; Sắc lệnh về việc Đào tạo linh mục số 8; Tuyên ngôn về Các tôn giáo số 3, 4; Sắc lệnh về Tông đồ giáo dân số 4; Sắc lệnh về Truyền giáo số 4; Sắc lệnh về Linh mục số 18; Hiến chế GS số 22.

[8] Xem thêm: Huấn thị của Bộ Giáo dục Công giáo về việc dạy TMH trong các chủng viện: The Virgin Mary in Intellectual and Spiritual Formation (March 25,1988).

[9] R. Laurentin, Un armo di grazia con Maria. La sua storia, il dogma, la sua presenza, Queriniana, Brescia 1987, pp. 83-131.

[10] ĐGH Gioan Phaolô II, Diễn văn đọc tại Capua (ngày 24-5-1992) nhân dịp hội nghị kỷ niệm 1600 năm công đồng Capua tuyên xưng tín điều Đức Maria trọn đời đồng trinh năm 392, dưới triều giáo hoàng Siriacô: AAS 85 (1993) 663-670.

[11] A. Kniazeff, La Madre di Dio nella Chiesa ortodossa. San Paolo, Cinisello Balsamo 1993.

[12] G. Bruni, Mariologia Ecumenica? Indicazioni dal dialogo ecumenico ufficiale internazionale tra la Chiesa cattolica romana e le Chiese nate dalla Riforma, in Marianum 59 (1997) pp. 601-650.

[13] S. De Fiores, “Le «vie» della conoscenza di Maria: panoramica generale”, in AA. VV., Come conoscere Maria. Centro di Cultura Mariana , Roma 1984, pp. 7-27.

[14] Về phía thần học, Hans Urs von Balthasar là người đã mở hướng mới cho môn “thẫm mỹ thần học” (esthetica theologica). Vài tác phẩm tiêu biểu của lối tiếp cận theo con đường “đẹp”: C. Militello, Mariologia e “via pulchritudinis”, in: Marianum 61 (1999) pp. 459-487; AA.VV, Via pulchritudinis e mariologia. AMI, Roma 2003; S. M. Perrella, “Tota Pulchra es Maria”. L’Immacolata: frutto segno e riverbero della bellezza e dello splendore di Cristo Redentore dell’uomo, in AA. VV., Il dogma dell’Immacolata Concezione di Maria. Problemi attuali e tentativi di ricomprensione. Marianum, Roma 2004, pp. 463-623; F. Manzi, La bellezza di Maria. Riflessioni bibliche. Ancora, Milano 2005.

[15] AA. VV., Maria nel Catechismo della Chiesa Cattolica. Centro di Cultura Mariana, Roma 1993.

[16] J. Castellano Cervera, La presenza di Maria nel mistero del culto. Natura e significato, in Marianum 58 (1996) pp. 387-427; S. De Fiores, Maria madre di Gesùø. Sintesi storico-salvifica. EDB, Bologna 1992, pp. 230-287; C. Valenziano, Culto popolare a Maria con celebrazione liturgica e con spritualità spontanee, in AA. VV. Maria nella Chiesa in cammino verso il Duemila. Marianum-Dehoniane, Roma-Bologna 1989, pp. 315-357.

[17] Đừng kể những văn kiện mang tính Huấn quyền, Thánh Gioan Phaolô II còn trình bày một loạt bài huấn giáo về Đức Maria, gồm 70 bài (được dịch sang tiếng Việt “Những bài huấn giáo về Đức Maria”).

[18] Thông điệp Redemptoris Mater được viết trong bối cảnh Năm Thánh Mẫu (1987-88), chuẩn bị đón mừng năm 2000. Một vài phong trào đã yêu cầu Đức Thánh Cha tuyên bố một Năm thánh kỷ niệm 2000 năm sinh nhật Đức Mẹ.