Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (5)

[ Điểm đánh giá5/5 ]1 người đã bình chọn
Đã xem: 2743 | Cập nhật lần cuối: 5/10/2016 2:12:52 PM | RSS

(Tiếp theo)

5. Ngài là vua ta

Ngài đến cai trị ta, truyền lệnh cho ta.

Một mình Ngài là vua ta.

Thiên Chúa, Đấng là vị Vua cao trọng và độc nhất của thế giới, đã đặt Ngài làm vua nhân loại, như ta thấy trong các Thánh vịnh và Ngôn sứ.

Ta sẽ ban cho Người mọi nước làm gia nghiệp.

Người sẽ ngự trị từ biển khơi tới trùng dương.

Ngày đầu thai của Ngài, thiên sứ loan báo uy phong của Ngài và vương triều tương lai của Ngài.

Ngài sẽ nên cao trọng, Ngài sẽ được gọi là Con Thiên Chúa, và Đức Chúa sẽ ban cho Ngài ngôi báu Đavít tổ phụ Ngài, và Ngài sẽ thống trị trong nhà Giacóp, và triều đại Ngài sẽ vô cùng tận. (x. Lc 1, 32)

Thánh Gioan Tẩy Giả chuẩn bị cho vương quốc Ngài. Vào ngày giáng sinh, các vua chúa cũng đến bái lạy Ngài, và đến Giêrusalem hỏi thăm xem Vua Do Thái sinh ra ở đâu.

Trong đời Ngài, Ngài được dân chúng tung hô là vua và chúc tụng danh Ngài và vương quyền Ngài.

Có những kẻ tung hô Ngài, kẻ khác lại phủ nhận Ngài. Chúng tôi không có vua nào khác ngoài vua César. Nolumus hunc regnare super nos (chúng tôi không muốn tên này làm vua chúng tôi. (x. Lc 19, 14))

Khi Philatô hỏi xem Ngài có phải là vua không, Ngài trả lời: Phải, tôi là vua. Sở dĩ tôi sinh ra và đến trong thế gian này, là để làm chứng cho sự thật.

Bất cứ ai bởi sự thật thì lắng nghe tiếng tôi. (x. Ga 18, 37) Ngài cắt nghĩa về vương quyền của Ngài, Ngài là vua sự thật.

Nước tôi không ở thế gian này, nếu nước tôi ở thế gian này, các bộ hạ của tôi chắc chắn sẽ chiến đấu cho tôi, nhưng nước tôi không thuộc cõi này.

Vương quyền của Đức Giêsu Kitô không ở trong quân lính, đồn lũy, nhà cửa, biên cương.

Một vương quyền hoàn toàn thiêng liêng.

Vương quốc sự thật.

Đây là vua chân lý. Ego sum veritas

Tôi đến để làm chứng cho sự thật.

Vương quốc này không có giới hạn, sự thật làm gì có giới hạn, có biên cương, nó ở khắp nơi, nó dành cho các tâm hồn. Ai yêu sự thật thì chọn Đức Giêsu làm vua.

Người ta không bảo vệ vương quốc này bằng binh khí, bằng thành lũy, bằng quân lính.

Đây là vương quốc các tâm hồn, nó lan khắp vũ trụ, mọi người được mời gọi đến, mọi người có thể vào trong đó.

Đây là vương quyền duy nhất đích thật, vương quốc duy nhất đích thật; các vương quốc khác chỉ là những quốc gia trần tục, họ dành nhau một khoảnh đất, họ chỉ tìm kiếm đất đai và tìm kiếm số dân.

Vương quốc của Đức Giêsu Kitô khác hẳn, cao hơn hẳn.

Vị nguyên thủ của vương quốc thiêng liêng đó khác hẳn với những ông vua khác.

Vua Chúa trần gian có những cung điện tráng lệ, Ngài chỉ có một chuồng bò làm nơi cư trú; suốt cả đời Ngài, Ngài không có chỗ tựa đầu. Các ông vua khác đội vương miện bằng vàng trên đầu, Ngài chỉ có vương miện bằng gai góc. Ngai vàng [của Ngài]? Một thập hình.

Các vua khác mặc áo cẩm bào dát vàng gấm tía, Ngài chỉ có quần áo rách che thân. Các vua khác cầm phủ việt bằng vàng, Ngài chỉ có cây sậy làm hiệu lệnh cho cả vương quốc.

Thế nhưng, với áo xống nghèo nàn, mạt hạng, Ngài được Philatô chỉ vào Ngài nói với dân chúng: Đây là vua của các ngươi.

Ý nghĩa đích thật của các phù hiệu đế vương đó: chúng rất chân minh và chính đáng đối với đức vua chân lý.

Vương quốc sự thật này hiện hữu thực thụ, nó được thành lập cách đây 1870 năm. Và không ai có thể hủy diệt nó, nó vẫn vận hành. Nó có nguyên thủ, có quan chức, có binh lính, có thần dân, có kẻ thù, và nó lan khắp cả địa cầu.

Đẹp đẽ biết bao, vương quốc của Đức Giêsu Kitô!

Cao sang biết bao vị vua là Đức Giêsu Kitô!

Vua chúa thế gian mới nhỏ bé dường nào so sánh với Đức Giêsu Kitô, Ngài là vị vua duy nhất đích thật của cả vũ trụ và loài người!

Vậy ta hãy nghiêng mình trước nhan Đức Giêsu Kitô, Ngài là vua ta, và hãy chào đón Ngài như đức vua đích thật và duy nhất.

Rex regum, Dominus dominantium; sedenti in throno et gloria in saecula saeculorum. (Vua các vua và Chúa các Chúa. (x. 1 Tm 6, 15)). Xin dâng Đấng ngự trên Ngai cùng với Chiên Con lời chúc tụng, tôn danh, vinh quang và quyền năng đời đời kiếp kiếp. (x. Kn 5, 13)

Và đến ngày tận thế, bấy giờ Ngài sẽ xuất hiện dưới danh hiệu đẹp đẽ là vua, khi Ngài đến phán xét thế gian, trọng thưởng những kẻ đã phục vụ Ngài, trừng trị những kẻ bất tuân lời Ngài. Bấy giờ Ngài sẽ ban thiên đàng cho kẻ lành và kết án kẻ dữ với án hỏa ngục.

Bấy giờ sẽ bắt đầu triều đại vĩnh hằng của Đức Giêsu Kitô ở trên trời.

Vương quốc ấy vĩ đại biết bao! Vương quốc ấy đẹp đẽ biết bao! Vương quốc ấy đông đúc biết bao! Từ Đức Giêsu Kitô cho đến tận thế, và tất cả những ai đến trước Ngài, những kẻ đã đặt hy vọng ở Ngài.

Vương quốc thánh thiện, tinh truyền.

Nơi đó sẽ không còn Satan thống trị, nơi đó mọi sự xảy ra trong công bình và bác ái, nơi đó chúng ta cùng với 24 lão trượng, nghiêng mình ca hát, với các vị đồng trinh, tử đạo, chư thánh… Ôi! Vương quốc đẹp đẽ của Đức Giêsu Kitô!

6. Ngài là Thầy ta, vị Thầy duy nhất của ta [1]

Ta gọi bằng thầy những ai giáo huấn dạy dỗ ta.

Nhưng Đức Giêsu Kitô là vị Thầy độc nhất, duy nhất của ta.

Ngài là Lời Thiên Chúa, trong Ngài có tất cả mọi kho tàng hiểu biết và khôn ngoan.

Với tư cách Lời, Ngài là chính tư duy của Thiên Chúa, Ngài sở hữu tất cả tri thức của Thiên Chúa, tất cả mọi hiểu biết của Cha.

Ngài là Lời Cha, mặc vóc dáng bên ngoài để nói năng với chúng ta; Ngài từ trời mà đến để nói năng với chúng ta và cho ta nhận ra các ý muốn của Thiên Chúa, Cha Ngài.

Ngài là chính bức thư sống Cha gửi cho ta để ta đọc lên và làm theo đó.

Chính Thiên Chúa đã cho ta biết: "Này đây tôi tớ của Ta, kẻ Ta nâng đỡ, Người, Ta đã chọn và hồn Ta sủng mộ. Ta đã ban thần khí Ta trên Người, Người sẽ làm rạng phán quyết ra cho các nước.” (Is 42, 1)

Vào ngày hiển biến, chính Cha đã tuyên dương Ngài và nói: “Ngài là Con chí ái của Ta, kẻ Ta đã sủng mộ, các ngươi hãy nghe Ngài.” (Mt 17, 5)

“Quả vì Thiên Chúa đã yêu mến trần gian như thế, đến nỗi đã thí ban Người con một, ngõ hầu phàm ai tin vào Ngài thì khỏi phải hư đi, nhưng được có sự sống đời đời.” (Ga 3, 16)

Nhiệm vụ lớn lao nhất của Ngài là dạy dỗ trần gian

Đó là điều Ngài cắt nghĩa cho cư dân thành Nagiarét, khi Ngài giải thích lời Ngôn sứ Isaia.

Thần khí Chúa ở trên tôi.

Vì thế, Người đã xức dầu cho tôi để hiến thánh tôi và đã sai tôi đem Tin Mừng cho người nghèo khó. (x. Lc 4, 18)

Ngài nói với các sứ đồ: ta hãy đi giảng dạy, Thầy đến vì mục đích ấy. Ad hoc veni.

Tôi cần phải rao giảng Tin Mừng nước Thiên Chúa,

“Chính vì thế mà Ta đã được đến.” (Lc 4, 43)

“Chính vì lẽ này mà Tôi đã đến trong thế gian, ấy là để làm chứng cho sự thật, để dạy dỗ trong sự thật.” (Ga 18, 37)

“Chính Ta là ánh sáng trần gian; khi Ta còn ở thế gian, Ta là sự sáng trần gian.” (Ga 9, 5)

“Đấng là sự thật, là sự sống chính là Ta.” (Ga 14, 6)

Đó là tước hiệu của Ngài

Ngài phán với các sứ đồ của Ngài: “Các ngươi thưa thốt cùng Ta: Lạy Thầy, lạy Chúa! Và các ngươi nói phải: hẳn Ta là thế.” (Ga 13, 13)

“Thầy của các ngươi chỉ có một! Đức Kitô.” (Mt 23, 8)

Phụ nữ Samari thưa Ngài: Khi Đấng Mêsia đến, Ngài sẽ loan báo cho chúng tôi mọi sự. Đức Giêsu bảo bà ấy: chính là Ta, người đang nói với ngươi.” (Ga 4, 25)

Điều Ngài giảng dạy, Ngài chỉ giảng dạy theo ý Cha Ngài, Đấng đã sai Ngài

“Đạo lý tôi, không phải của Ta mà là của Đấng đã sai Ta.” (Ga 7, 16)

“Đấng sai Ta là Đấng chân thật, và điều Ta đã nghe nơi Người, Ta nói ra cho thế gian.” (Ga 8, 26)

“Các lời Ta nói với các ngươi không phải tự Ta mà Ta nói ra, nhưng chính Cha, Đấng ở trong Ta, hằng làm công việc của Người.” (Ga 14, 10)

“Những gì Ta đã thấy nơi Cha Ta, thì ta nói ra; Ta, một người đã nói sự thật với các ngươi, sự thật Ta đã nghe tự Thiên Chúa.” (Ga 8, 38)

“Lời các ngươi nghe đây không phải là của Ta, nhưng là của Cha, Đấng đã sai Ta.” (Ga 14, 24)

“Bởi vì không phải chính Ta tự mình đã nói ra, nhưng Cha, Đấng sai Ta đã truyền lệnh Ta phải dạy gì hay nói gì. Và Ta biết lệnh truyền của Người, ấy chính là sự sống đời đời. Vậy các điều Ta nói, thì như Cha đã nói với Ta sao, Ta cũng nói vậy.” (Ga 12, 49)

Ngài biết Thiên Chúa Cha

Ngài biết Thiên Chúa Cha, Ngài là Lời Cha, do đó Ngài luôn luôn ở với Cha và trong Cha. (x. Ga 8, 35)

Thiên Chúa không ai từng thấy bao giờ; Con một, Đấng ở nơi cung lòng Cha, chính Ngài đã thông tri.” (Ga 1, 18)

“Không ai đã lên trời, trừ phi Đấng tự trời mà xuống, Con Người, Đấng ở trên trời.” (Ga 3, 13)

“Đấng đã sai Ta ở với Ta. Người đã không bỏ Ta một mình, vì Ta hằng làm những sự đẹp lòng Người.” (Ga 8, 29)

“Các ngươi thuộc bên dưới, Ta thuộc bên trên! Ta không thuộc về thế gian này.” (Ga 8, 23)

Vậy Ngài có thể nói sự thật: “Hãy tin vào Thiên Chúa, và cũng hãy tin vào Ta.” (Ga 14, 1)

“Kẻ tin vào Ta, không phải chính vào Ta mà nó tin, mà là Đấng đã Ta.” (Ga 12, 44)

“Quả thật, quả thật, Ta bảo các ngươi: Kẻ nghe lời Ta và tin vào Đấng đã sai Ta thì có sự sống đời đời, và khỏi đến tòa phán xét, nhưng đã ngang qua sự chết mà vào sự sống.” (Ga 5, 24)

Vậy Ngài đích thật là Thầy chúng ta. Một mình Ngài có quyền dạy dỗ ta các chân lý đời đời. Ngài đã lĩnh nhận từ Thiên Chúa nhiệm vụ lớn lao là dạy dỗ loài người, Ngài được sai đi vì mục đích ấy, duy mình Ngài có khả năng dạy vẽ cho chúng ta, bởi vì duy mình Ngài biết Thiên Chúa, và đã nhận mệnh lệnh cho mục đích ấy.

Khi nghe lời Ngài, chúng ta nghe chính Thiên Chúa, và khi tin vào Ngài, chúng ta tin vào sự sống đời đời.

Ngài là Thầy ta.

Các sứ đồ không gọi với tên nào hơn là Thầy

Khi họ chèo thuyền trên biển, bị bão tố đe dọa sắp chìm thuyền, họ kêu lên: “Lạy Thầy, lạy Thầy chúng tôi chết mất.” (Lc 8, 24)

Khi Đức Giêsu hỏi dân chúng ai đã sờ đụng tới áo mình, Phêrô thưa: “Thưa Thầy, dân chúng dồn dập lại chen phải Thầy đó!” (Lc 8, 45)

Gioan thưa với Đức Chúa rằng: “Thưa Thầy, chúng tôi đã thấy người kia lấy Danh Thầy trừ quỉ, và chúng tôi đã cố gắng ngăn cản, vì hắn không theo chúng tôi.” (Lc 9, 49)

Các sứ đồ thấy một người mù từ bẩm sinh mới hỏi Chúa Giêsu và nói: “Rabbi, ai đã phạm tội, nó hay cha mẹ nó, để nó phải sinh ra mù lòa vậy?” (Ga 9, 2)

Khi Chúa Giêsu bảo các sứ đồ: ta hãy trở về xứ Giuđê thì họ thưa: “Rabbi, vừa đây người Do Thái tìm cách ném đá Ngài, mà Ngài lại qua đó nữa sao?” (Ga 11, 8)

Giacôbê và Gioan muốn xin Chúa Giêsu một đặc ân bèn thưa: Thưa Thầy, chúng tôi ước gì Thầy làm cho chúng tôi điều chúng tôi xin Thầy.” (Mc 10, 35)

Đi qua cây vả bị khô héo, Phêrô thưa Chúa Giêsu: “Rabbi, kìa cây vả Ngài nguyền rủa đã chết khô rồi!” (Mc 11, 21)

Các sứ đồ không hiểu ý nghĩa một dụ ngôn, bèn thưa Chúa Giêsu: “Xin giải nghĩa câu ví kia cho chúng tôi.” (Mt 15, 15)

Thấy các viên đá tráng lệ của đền thờ, các sứ đồ thưa:

“Lạy Thầy, xin hãy coi: đá đâu như thế, kiến trúc đâu như thế?” (Mc 13, 1)

Các sứ đồ muốn biết ngày tận thế bèn thưa: “Lạy Thầy, vậy bao giờ các điều ấy sẽ xảy ra?” (Lc 21, 7)

Chính Giuđa, chào Ngài tiếng chào phản bội, cũng thưa Ngài: “Chào Rabbi!” (Mt 26, 49)

Sau hết, luôn luôn họ tặng Ngài danh hiệu Thầy, bởi họ đã nhận ra nơi Ngài, Ngài có cái quyền thần thiêng để chỉ vẽ và dạy dỗ họ, và đó là nhiệm vụ lớn lao của đấng Thiên sai cứu thế. Những kẻ khác cũng tặng Ngài danh hiệu Thầy, họ không gọi Ngài cách nào khác, vì lời Ngài nói quả có quyền uy gì, và hết thảy họ cảm thấy rõ rệt chức vụ lớn lao của Đấng Cứu thế đối với họ.

Martha

Khi Martha gọi em báo tin cho biết Đức Giêsu đang có mặt, bà ta nói: “Thầy có mặt và gọi em.” (Ga 11, 28)

Madalêna

Madalêna, khi đã nhận ra Đức Giêsu sau Phục Sinh, đã không thốt ra danh từ nào ngoài tiếng “Rabbuni, lạy Thầy,” (Ga 20, 16)

Ký lục và biệt phái

Chính đám ký lục và biệt phái cũng không dùng danh hiệu nào khác khi nói về Ngài một viên ký lục muốn trở thành môn đồ Ngài bèn thưa: “Thưa Thầy, tôi xin theo Thầy bất cứ Thầy đi đâu.” (Mt 8, 19)

Biệt phái thì nói với các sứ đồ: “Tại sao ông ấy lại ăn với quân thu thuế và tội lỗi?” (Mc 2, 26)

Biệt phái và ký lục thưa Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, chúng tôi muốn Thầy cho thấy một dấu lạ.” (Mt 12, 38)

Sau vụ hóa bánh ra nhiều, đám đông gặp thấy Chúa Giêsu đang ẩn lánh ở Capharnaum, bèn thưa: “Rabbi, Ngài đã đến đây bao giờ.” (Ga 6, 26)

Người bố của đứa bé kinh phong đem con tới xin Chúa chữa, quỳ xuống và nói: “Thưa Thầy, tôi đã đem con tôi lại cùng Thầy.” (Mc 9, 17)

Những người phong cùi cất tiếng thưa Đức Giêsu: “Lạy Thầy Giêsu, xin thương xót chúng tôi.” (Lc 17, 13)

Người Biệt phái dẫn tới trước mặt Chúa Giêsu một đàn bà ngoại tình để Ngài kết án bà ta. Họ thưa: “Ai lại đi hoạt động chùng lén.” (Ga 7, 4)

Một thanh niên đến hỏi Chúa Giêsu để biết phải làm gì cho được lên trời. Anh ta thưa: “Lạy Thầy tốt lành, làm gì thì thôi có được sự sống đời đời làm cơ nghiệp?” (Lc 18, 18)

Người mù Giêricô kêu lên: “Rabbi! Xin cho tôi được thấy!” (Mc 10, 51)

Biệt phái giận dữ vì người ta hoan hô Chúa Giêsu, bèn nói: “Thưa Thầy, Thầy hãy sửa dạy môn đồ Thầy!” (Lc 19, 39)

Một tiến sĩ luật hỏi Chúa Giêsu: “Thưa Thầy, Giới răn nào lớn nhất trong lề luật?” (Mt 22, 35) Đúng là một danh vị thông dụng Chúa Giêsu được người ta gọi. Đó cũng phải là danh vị chúng ta dành cho Ngài. Lời Ngài đối với ta phải là lời của vị Thầy, lời chân minh, lời vô ngộ, lời Thiên Chúa.

Thầy đã nói thì đủ rồi.

Chúng con biết đến với ai, vì Thầy có lời ban sự sống đời đời?

Verba mea spiritus et vita sunt “Lời Ta là thần khí và là sự sống.” (Ga 6, 64)

7. Ngài là thủ lĩnh chúng ta

Chính Ngài làm đầu để hướng dẫn chúng ta. Người đứng đầu của ta. Người hướng đạo của ta. Và ta phải theo Ngài.

“Hỡi ngươi, Bêlem, đất thuộc Giuđa, hẳn ngươi không phải là nhỏ nhất trong hàng bộ lạc Giuđa, vì tự ngươi: sẽ xuất hiện vị thủ lĩnh, kẻ sẽ chăn dắt Israel dân ta.” (Mt 2, 6)

“Anh em được sung mãn dư đầy trong Ngài, đầu mọi thiên phủ và uy linh.” (Cr 2, 10)

“Vào thời kỳ sau hết, tức là những ngày này, Người đã nói với ta nơi một Người Con, mà Người đã đặt làm Đấng thừa tự tất cả mọi sự, và cũng nhờ Ngài mà Người đã làm ra các thế giới: Ngài là phản ảnh của vinh quang, là ấn tượng của bản lĩnh Người, và cầm giữ cả vạn vật bằng lời quyền năng của Ngài; sau khi đã thi hành việc thanh tẩy tội lỗi, Ngài đã lên ngự Đấng oai nghi chống cửu trùng, trổi hơn thiên thần vạn bội, bởi khác với họ, Ngài đã thừa hưởng một Danh khôn ví.” (Hr 1,2-4)

“Và Ngài có ưu thắng trên mọi sự, và mọi sự đều tồn tại trong Ngài.” (Cr 1, 17)

“Thiên Chúa đã siêu tôn Ngài! Và ban cho Ngài danh hiệu vượt quá mọi danh hiệu.” (Pl 2, 9)

“Muôn sự Ngài đã đặt cả dưới chân.” (Hr 1, 22)

“Cũng như Đức Kitô là đầu của Hội Thánh, và Ngài là Cứu Chúa của thân mình.” (Ep 5, 33)

“Tôi muốn anh em biết rằng: Đầu của mọi nam nhân là Đức Kitô; đầu của người nữ là người nam; đầu của Đức Kitô là Thiên Chúa.” (1 Cr 11, 3)

Chúng ta lớn lên về mọi mặt trong Đức Giêsu Kitô, như Ngài là đầu của chúng ta. (x. Ep 4, 15)

Ngài là nguyên khởi, là trưởng tử từ cõi chết, để trong mọi sự, Ngài chiếm Đệ nhất vị, bởi vì Cha đã muốn tất cả sự viên mãn cư ngụ trong Ngài. (x. Cr 1, 17)

Tôi muốn anh em biết, Đức Giêsu Kitô là đầu thủ của mọi con người. (x. 1 Cr 11, 3)

Ngài là đầu của Hội Thánh. (x. Ep 5, 23)

Trong đầu thì có trí khôn, tại đầu có con mắt để nhìn, lỗ tai để nghe, lời nói để ra lệnh.

Còn chúng ta, chúng ta là những chi thể.

Chính Ngài dẫn dắt chúng ta.

Ego sum via (Chính Thầy là đường đi) (x. Ga 14, 6)

Các con hãy theo Thầy.

Ai theo Thầy không đi trong tăm tối.

Ta chẳng nên có thủ lĩnh nào ngoài Ngài.

(Còn tiếp)

Lm. Antoine Chevrier

Trích “Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu Kitô”, P.E.L, Lyon, 1968, tr. 139-151

------------------------------------------

* Bài liên quan:

Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (1)

Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (2)

Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (3)

Người môn đệ đích thực của Chúa Giêsu (4)

Chú thích

[1][1] Ms XI 26

Cần phải có một vị Thầy. Ta không thể hành xử một mình. Sự ngu dốt của ta quá lớn, lý trí không sáng tỏ cho lắm, dễ mà lầm lẫn, ảo tưởng, tưởng sự dữ là sự lành, cho cái giả làm điều thật.

Đức tính của người Thầy. Khi cần một ông thầy cho những sự việc vật chất như học đọc học viết, những kiến thức ngoài đời, để tập một nghề, chọn một địa vị… Phương chi ta càng cần một người thầy để hướng dẫn ta trong phạm vi thiêng liêng… [thủ bản bị rách]… Ta muốn gặp nơi vị tôn sư ấy một uy quyền và một trí tuệ trổi vượt. Ta ước mong tìm được ở vị đó sự thật, sự thánh thiện, công bằng, vững chắc về giáo lý kẻo ta bị sai lầm; những gương mẫu “phù hợp” với lời nói, một cái gì từ trời giúp ta nương tựa được, không phải lo sợ; một nền móng chắc chắn vững vàng, một cái gì không thể có ngộ nhận trong vị thầy, để chúng ta có thể tin tưởng, trao gởi tất cả. Điều này hết sức cần thiết cho niềm tin cũng như cách hành xử mà chúng ta phải có.

Tìm đâu ra được vị Thầy như thế? Chúng ta sẽ không tìm được trong loài người hoặc trong bản thân chúng ta. Tôi cảm thấy có thể sai lầm, tôi cũng cảm thấy mọi người có thể sai lầm như tôi. Người Thầy sẽ không thể tìm được trong thiên hạ, người Thầy đó cần phải từ Thiên Chúa đến, từ trời đến, phải là chính Thiên Chúa đến dạy dỗ chúng ta, bằng không, sẽ chẳng có gì là vững vàng, chắc chắn, là bảo đảm. Thiên Chúa có thể nào từ chối vị Thầy đó với ta chăng? Không. Thiên Chúa đã tạo dựng chúng ta theo hình ảnh Người, đã dựng chúng ta có trí khôn, đã ban cho chúng ta được hiểu biết điều thiện, cái đẹp, điều chân, điều dữ, Người không thể để ta lạc lõng mạo hiểm mà không dạy bảo ta, lo cho ta và đưa ta tới cứu cánh Người đã định khi dựng nên ta: chắc người phải ban cho ta một vị thầy. Thiên Chúa đã yêu thương trần gian đến nỗi đã ban Con Một Người để ai tin ở Ngài, tất có sự sống đời đời. Đây là Con Ta yêu dấu, nơi người Ta đặt tất cả lòng sủng ái: hãy nghe lời Người. Người Thầy đó là ai? Đó là Đức Giêsu Kitô. Một mình Ngài có đầy đủ mọi điều kiện mà ta đòi hỏi ở một vị Thầy đích thật, như chúng ta mong muốn, và chúng ta có quyền đòi hỏi.